trong danh sách của doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức mà nghỉ chờ việc trước ngày 01 tháng 01 năm 1995 nhưng chưa nhận trợ cấp một lần.
+ Riêng đối với người lao động đã có thời gian đóng BHXH đủ 15 năm trở lên theo các mức tiền lương thuộc công việc nặng nhọc, độc hại hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại trong thang lương, bảng lương do Nhà nước quy định mà chuyển sang làm công việc khác đóng BHXH có mức lương thấp hơn thì khi nghỉ hưu được lấy các mức lương cấp bậc của 5 năm liền kề làm công việc nặng nhọc, độc hại để tính mức bình quân tiền lương làm cơ sở tính hưởng lương hưu.( bổ xung vào cuối khoản 1 Điều 29 ).
Ngoài ra, với việc bổ xung tiếp vào Điều 35a về cách tính thời gian đóng BHXH để giải quyết chế độ được quy định lại như sau: những người có thời gian đóng BHXH từ đủ 3 tháng đến 6 tháng thì được tính nửa năm (1/2) năm; từ trên 6 tháng được tính tròn là 1 năm. Một điều không thể không nhắc đến ở mảng quỹ của hệ thống BHXH là việc bổ xung khoản2 Điều 149 của Luật lao động là: quỹ BHXH được quản lý thống nhất, dân chủ và công khai theo chế tổ chức của Nhà nước, hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ. Quỹ BHXH được thực hiện các biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng trưởng theo quy định của chính phủ. Và nguồn quỹ từ nay trở đi ngoài các nguồn đóng góp từ người lao động, người sử dụng lao động và một phần hỗ trợ từ phía ngân sách Nhà nước còn có tiền sinh lời của quỹ từ các hoạt động đầu tư.
II. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ HƯU TRÍ CỦA BHXH Ở NƯỚC TA
1. Tình hình thu phí bảo hiểm của chế độ hưu trí
1.1 Mức thu
Nhìn lại mức thu trong khoảng thời gian trước khi nước ta chuyển đổi nền kinh tế và đến khi thành lập cơ quan BHXH cùng các văn bản mới ra đời thì mức thu phí nói chung là rất thấp. Theo qui định tại NĐ 218/CP trong tổng mức đóng góp của các cơ quan xí nghiệp vào quỹ BHXH là 4,7% so với quỹ lương thì chỉ có 1% do Bộ lao động-Thương binh và xã hội quản lý để chi trả cho 3 chế độ: hưu trí, MSLĐ và tử tuất. Tiếp theo đó NĐ 236/HĐBT nâng tỉ lệ đóng BHXH lên 13% của tổng quỹ tiền lương của các cơ quan xí nghiệp và tỷ lệ được trích vào quỹ dùng để chi trả cho các chế độ BHXH dài hạn, trong đó có chế độ hưu trí là 8%. Với mức thu như vậy, thì số tiền thu để chi trả cho chế độ hưu trí là rất thiếu. Chúng ta không tách riêng từng chế độ để tính nhưng việc hàng năm nhà nước phải trích từ ngân sách một số tiền rất lớn để chi trả với tỉ lệ cấp bù hầu hết đều trên 78%, năm 1987 lên tới 97,67% là tình trạng chung cho mọi chế độ và nó còn nghiêm trọng hơn nữa nếu ta tính riêng cho chế độ hưu trí. Vì trong các chế độ thì chế độ hưu trí có số lượng người hưởng đông nhất với tổng số tiền chi trả là lớn nhất.
Qua bảng số liệu sau ta sẽ thấy rõ được vấn đề này, hàng năm NSNN phải bỏ ra một khoản không nhỏ để bù cho BHXH chi trả các chế độ và đây thực sự là một gánh nặng của NSNN.
Bảng số 2: Tỉ lệ % cấp bù từ NSNN cho các chế độ BHXH
% thu BHXH so với chi | % cấp bù từ NSNN | |
1985 | 3,00 | 97,00 |
1986 | 3,30 | 96,70 |
1987 | 2,33 | 97,67 |
1988 | 29,05 | 70,95 |
1989 | 32,59 | 67,41 |
1990 | 26,18 | 73,82 |
1991 | 15,07 | 84,93 |
1992 | 21,90 | 78,30 |
1993 | 20,70 | 79,30 |
1994 | 18,80 | 81,20 |
Có thể bạn quan tâm!
- Một Số Kinh Nghiệm Rút Ra Từ Việc Thực Hiện Chế Độ Hưu Trí Ở Một Số Nước
- Chế độ bảo hiểm hưu trí - 4
- Chế độ bảo hiểm hưu trí - 5
- Quản Lý Đối Tượng Và Mô Hình Chi Trả Lương Hưu
- Điều Chỉnh Lại Tiền Lương Hưu Để Đảm Bảo Công Bằng Giữa Những Người
- Chế độ bảo hiểm hưu trí - 9
Xem toàn bộ 88 trang tài liệu này.
(Nguồn: BHXH Việt Nam).
Từ năm 1995 chúng ta chuyển sang phương thức thu BHXH trực tiếp để hình thành quỹ BHXH độc lập cho sự phát triển của sự nghiệp BHXH, thi hành luật Lao động về BHXH và NĐ12/CP, chúng ta đã xây dựng một cơ chế hình thành quỹ BHXH, việc quản lý thu chi BHXH và chế độ hưu trí có sự thay đổi căn bản so với trước đây.
Trong việc đóng BHXH, mức đóng góp hàng tháng được quy định bắt buộc là 20%. Trong đó người sử dụng lao động đóng bằng 15% so với tổng quỹ tiền lương của những người tham gia BHXH trong đơn vị ( 10% để chi các chế độ hưu trí và tử tuất còn 5% để chi các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động- bệnh nghề nghiệp); về người lao động đóng bằng 5% tiền lương tháng để chi các chế độ hưu trí và tử tuất. Ngoài ra, với các Nghị định mới có sự thay đổi về việc tăng lương được thực hiện vào đầu năm 2003 ta thấy mức đóng so với trước đây vào BHXH để hưởng hưu trí tăng lên nhiều lần.
1.2. Số đối tượng tham gia đóng BHXH
Nguồn thu chủ yếu của BHXH bao gồm cả 2 đối tượng chính là người sử dụng lao động hay đó là các cơ quan doanh nghiệp và tổ chức có sử dụng lao động thuộc diện phải đóng BHXH và bản thân người lao động. Trước khi có chính sách đổi mới về BHXH, đối tượng đóng BHXH cho chế độ hưu trí chỉ giới hạn trong phạm vi lao động làm việc trong các doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước và chỉ có người sử dụng lao động đóng, còn người lao động thì không. Trong
thời kỳ đó, Nhà nước mà đại diện của mình là các cơ quan doanh nghiệp Nhà nước là đối tượng đóng chủ yếu.
Từ sau năm 1995, BHXH đổi mới đã mở rộng đối tượng tham gia vào BHXH, chủ yếu là chế độ hưu trí. Vì thế, số thu BHXH tăng lên rất nhiều.
Bảng số liệu sau cho ta thấy rõ điều này.
Bảng số 3 : Thu BHXH ( tính đến 31/12 hàng năm )
Số người đóng BHXH | Số tiền đóng BHXH ( tỷ VNĐ) | ||||
Số người | Số tăng tuyệt đối | Tổng số | Chế độ dài hạn | Tốc độ phát triển liên hoàn% | |
1996 | 3231444 | 2569,73 | 1927,28 | ||
1997 | 3572352 | 340908 | 3683,86 | 2762,87 | 143,3 |
1998 | 3765389 | 193037 | 3992,61 | 2994,46 | 108,3 |
1999 | 3860000 | 94611 | 4326,7 | 3245,03 | 108,4 |
2000 | 4127680 | 267680 | 5564,08 | 4173,06 | 128,6 |
2001 | 4422500 | 294820 | 6827,01 | 5120,26 | 122,7 |
2002 | 4731721 | 309221 | 7193,7 | 6270,42 | 122,4 |
Biểu đồ 1: Tổng thu BHXH và chế độ dài hạn
(tỷ VNĐ)
8000
7000
6000
5000
4000
3000
2000
1000
0
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Năm
Tỉng sè
Chế độ dài hạn
sè tiÒn
( nguồn : BHXH Việt Nam )
Khi nền kinh tế nước ta chuyển sang cơ chế thị trường với nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia hoạt động dẫn tới sự chuyển dịch về lao động và quan hệ lao động. Kể từ năm 1993, thực hiện NĐ43/CP (22/6/1993) của Chính Phủ quy định
tạm thời về chế độ BHXH theo hướng tập trung thống nhất về nhiệm vụ và quyền lợi của mọi thành phần kinh tế, một số địa phương được giao thí điểm thực hiện BHXH đối với người lao động thuộc khu vực ngoài quốc doanh. Nhất là khi có hướng dẫn thu ngoài quốc doanh 729/BHXH của BHXH Việt Nam, thì hoạt động thu chi của các doanh nghiệp này ngày càng hiệu quả hơn. Điều này được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng 4 : Tham gia BHXH của lao động ngoài quốc doanh
1996 | 1997 | 1998 | 1999 | 2000 | 2001 | |
Số đơn vị tham gia BHXH | 30789 | 34185 | 49628 | 59464 | 61404 | 64302 |
Trong đó : số đơn vị NQD tham gia BHXH | 2100 | 2.300 | 3138 | 3626 | 4012 | 4901 |
Trong đó : số lao động NQD tham gia | 16763 | 19.703 | 120528 | 127491 | 194000 | 2.31594 |
Số tiền thu từ NQD (tỷ) | 34 | 70 | 92 | 127 | 181 | 242 |
Thu cho hưu từ NQD (triệu) | 262 | 54284 | 76281 | 101600 | 144149 | 195513 |
( Nguồn: BHXH Việt Nam)
Như vậy cùng với sự chuyển nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường với nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia cho nên đã có sự chuyển dịch về lao động. Đặc biệt là mở rộng đối tượng tham gia BHXH ngày càng tăng, góp phần vào tăng trưởng quỹ.
Nhìn chung, BHXH Việt Nam đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ. Kết quả này bắt nguồn từ việc thực hiện nghiêm chỉnh đúng luật về BHXH, công tác quản lý và đôn đốc tốt hơn. Mặc dù vậy, BHXH vẫn chưa đạt được những mục tiêu đề ra, số lao động ngoài quốc doanh nhất là lao động trong doanh nghiệp tư nhân tham gia BHXH rất ít. Đó là do các nguyên nhân sau:
- Lao động trong khu vực này đại đa số thu nhập và tiền lương thấp nên nhu cầu BHXH với họ chưa phải là nhu cầu cấp bách. Mặt khác, nhận thức của họ về BHXH còn chưa cao, quy trình tham gia và hưởng BHXH lại phức tạp, mức lương thấp… nên chế độ hưu trí theo hệ thống BHXH chưa thực sự hấp dẫn họ.
- Chủ sử dụng lao động trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh 1 phần vì mục tiêu lợi nhuận, phần chưa hiểu biết rõ về nghĩa vụ và lợi ích của việc tham gia BHXH đối với doanh nghiệp. Vì vậy, chủ doanh nghiệp tìm cách né tránh hay trì hoãn tham gia BHXH.
- Ngành BHXH chưa có các biện pháp tích cực trong quản lý và đôn đốc nguồn thu. Ngành BHXH chưa có thẩm quyền pháp lý đủ mạnh trong xử lý các trường hợp vi phạm quy định về BHXH nhất là đối với các doanh nghiệp và chủ sử dụng lao động.
Hơn nữa, nước ta gần 80% dân số sinh sống ở nông thôn nên đối tượng tham gia tiềm năng ở đây là rất lớn. Do đó, cần có chế độ hưu trí tự nguyện cho người già ở nông thôn, nhằm đảm bảo quyền lợi chung cho toàn xã hội.
1.3. Công tác quản lý thu
Trước năm 1995, quỹ BHXH do Nhà nước thực hiện từ đóng đến chi trả vì vậy công tác quản lý thu ít được quan tâm. Quản lý tiền thu BHXH cũng rất phân tán, thiếu chặt chẽ và khó theo dõi do sự tách biệt tương đối lớn giữa hai cơ quan quản lý đó là Tổng liên đoàn lao động Việt Nam và Bộ lao động-Thương binh và Xã hội. Thu không gắn với chi, tiền thu cho các chế độ ngắn hạn do Tổng liên đoàn lao động quản lý vẫn thừa để chi, trong khi đó quỹ BHXH do Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội quản lý lại thiếu nghiêm trọng.
Từ khi ban hành NĐ12/CP (26/1/1995) và Điều lệ về BHXH Việt Nam chính thức ra đời, hoạt động với tư cách là một ngành độc lập, quỹ BHXH tách khỏi NSNN. Thu BHXH đã được coi là vấn đề quan trọng nhất, ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của sự nghiệp này. Vì vậy, công tác thu ngày càng được chú trọng hơn. Phương thức thu nộp cũng đơn giản hơn nhờ thực hiện qua hệ thống kho bạc Nhà nước và công tác quản lý đối tượng cũng ngày càng chặt chẽ. Một trong những tiến bộ vượt bậc trong công tác thu là việc cấp sổ BHXH cho đối tượng tham gia BHXH. Điều này giúp cho việc quản lý đối tượng chặt chẽ và thuận tiện hơn, khuyến khích người lao động tham gia BHXH.
2. Tình hình chi trả cho chế độ hưu trí
2.1. Số người hưởng chế độ hưu trí ở Việt Nam
Qua 40 năm thực hiện chế độ chính sách BHXH và chế độ hưu trí, đến nay nước ta có khoảng 1,3 triệu người đang hưởng chế độ hưu trí và khoảng 0,37 triệu người hưởng các chế độ mất sức, chế độ có bản chất tương tự như nghỉ hưu. Đây là con số không nhỏ nếu ta so với tổng số người đang đóng BHXH hiện nay (khoảng trên 4 triệu người), điều này phải tính toán đến sự cân bằng thu chi BHXH, nhất là chế độ hưu trí.
Ta thấy, qua thực tế thực hiện chế độ hưu trí giai đoạn 1985-1994 bộc lộ nhiều bất hợp lý. Nghị định 218/CP và NĐ 236/HĐBT đựoc thực thi trong một thời gian dài với nhiều hình thức quy đổi số năm công tác dẫn tới hàng năm NSNN phải chi trả cho số thời gian không thực của người về hưu là rất lớn. Sau
Đại hội Đảng toàn quốc lần VI, nền kinh tế có sự chuyển dịch căn bản, với sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, các doanh nghiệp tự đi vào hạch toán độc lập lấy thu bù chi. Cùng với đó là Quyết định 176/HĐBT (9/1/1989) và QĐ 111/HĐBT (12/4/1991) ra đời về việc tinh giảm biên chế và sắp xếp lại lao động đối với CNVC Nhà nước làm cho số lượng hưu tăng nhanh. Qua bảng số liệu sau ta thấy được điều này.
Bảng số 5: Số người hưởng chế độ hưu trí ( tính đến 31/12 hàng năm )
Số người | Tăng so với năm trước(người) | Tốc độ phát triển liên hoàn% | |
1985 | 399318 | ||
1986 | 425766 | 26448 | 106,62 |
1987 | 471001 | 45235 | 110,62 |
1988 | 549055 | 78054 | 116,57 |
1989 | 632130 | 83075 | 115,13 |
1990 | 760729 | 128589 | 120,34 |
1991 | 926240 | 165511 | 121,76 |
1992 | 1026000 | 99760 | 110,77 |
1993 | 1062000 | 36000 | 103,50 |
1994 | 1175000 | 113000 | 110,64 |
(Nguồn : BHXH Việt Nam)
Các năm trên có số người nghỉ hưu nhiều nhất là năm 1991 tăng cao nhất (121,76%), đây là do ảnh hưởng của việc nghỉ hưu “non” nhiều. Bên cạnh đó, sự quản lý không chặt chẽ, chưa thống nhất, đan xen lẫn lộn giữa các chính sách BHXH với đãi ngộ người có công với Cách Mạng của hệ thống BHXH dẫn đến số lượng về hưu lớn và tăng nhanh. Hơn nữa, với điều kiện đất nước như hiện nay, điều này còn làm lãng phí một nguồn nhân lực, làm mất ý nghĩa của BHXH.
Từ năm 1995, sau khi chính thức thành lập BHXH Việt Nam theo NĐ 19/CP và hình thành quỹ BHXH độc lập tập trung thì số người được hưởng chế độ hưu trí được bàn giao cho BHXH Việt Nam là 1.185.936 người, trong đó hưu CNVC là 1.024.967 người và hưu quân đội là 166.976 người. Kể từ đó đến nay, hàng năm số tăng qua các năm là không nhiều bởi theo thời gian thì đối tượng được hưởng cũng bị giảm do số người về hưu mất đi theo quy luật tự nhiên, chế độ chính sách thời kỳ này cũng được thực hiện tốt hơn. Tuy vậy, ta có thể thấy được tình hình duyệt mới số đối tượng được hưởng hưu trí qua các năm như sau:
Bảng số 6 : Tình hình duyệt mới số đối tượng được hưởng chế độ hưu trí hàng năm (đơn vị: người- tính đến 31/12)
1996 | 1997 | 1998 | 1999 | 2000 | 2001 | 2002 | |
Hưu CNVC | 12010 | 13727 | 16058 | 24058 | 29455 | 33213 | 41215 |
Hưu QĐ | 2547 | 3603 | 3850 | 5131 | 4537 | 4607 | 3447 |
( Nguồn: BHXH Việt Nam)
Qua bảng số liệu có thể thấy tốc độ gia tăng số đối tượng được hưởng chế độ hưu trí là nhanh kể từ ngày quỹ BHXH được thành lập. Cũng từ năm 1995 do có sự tách riêng về đối tượng được hưởng chế độ hưu trí nên đối tượng này đưọc chia làm 2 loại. Loại thứ nhất, đó là những người nghỉ hưu trước 1/10/1995 số này sẽ do NSNN chi trả hàng năm. Còn những người mà có đóng phí BHXH (hay phí bảo hiểm hưu trí) vào quỹ BHXH kể từ ngày 1/10/1995 sẽ do quỹ BHXH chi trả. Sở dĩ phải tách biệt hai loại đối tượng này là bởi vì như vậy mới bảo đảm được cơ chế mới trong BHXH là có đóng mới được hưởng chế độ từ quỹ BHXH. Ta có thể thấy tình hình thực hiện cụ thể qua các năm như sau:
Bảng số 7 : Tổng hợp đối tượng hưởng chế độ hưu trí (tính đến 31/12 hàng năm)
Hưu CNVC | Hưu QĐ | |||
NSNN | Quỹ BHXH | NSNN | Quỹ BHXH | |
1996 | 1006340 | 10789 | 164489 | 2492 |
1997 | 996235 | 24212 | 162572 | 5817 |
1998 | 979867 | 40258 | 160465 | 9205 |
1999 | 966291 | 64070 | 158231 | 13943 |
2000 | 951904 | 93270 | 155954 | 19194 |
2001 | 936679 | 116850 | 153375 | 22752 |
2002 | 920746 | 155641 | 150784 | 25342 |
n Linh 47 Lớp Bảo Hiểm 41B
Biểu đồ2: Hưu CNVC hưởng chế độ
1200000
1000000
i 800000
ê
n 600000
g
NSNN
sè 400000
Quỹ BHXH
200000
0
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Năm
Nguyễn Tiế
NSNN
Quỹ BHXH
Biểu đồ 3: Hưu QĐ hưởng chế độ
180000
160000
140000
120000
100000
80000
60000
40000
20000
0
1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002
Năm
Số người
( Nguồn : BHXH Việt Nam )
Cả hai đối tượng là hưu CNVC và hưu QĐ đều có đặc điểm chung là đối tượng thuộc NSNN chi trả đều giảm qua các năm, trong khi đó số đối tượng do quỹ BHXH chi trả tăng nhanh qua các năm. Điều này có thể giải thích được là do quỹ BHXH sẽ chịu trách nhiệm chi trả trực tiếp cho những người về hưu mà có tham gia quỹ kể từ ngày 1/10/1995. Còn các đối tượng được hưởng chế độ hưu trí trước 1995 sẽ do NSNN đài thọ. Chính vì vậy, số đối tượng hưởng chế độ hưu trí từ quỹ BHXH tăng rất nhanh còn số đối tượng hưởng chế độ hưu trí từ NSNN lại giảm dần qua các năm. Con số này giảm qua các năm là vì hàng năm không có thêm đối tượng xét duyệt mới thuộc nhóm này trong khi đó lại có 1 số người về hưu chết do tuổi già hoặc bệnh tật. Và theo thời gian con số này cứ giảm dần và đến 1 thời điểm nào đó nó sẽ bằng không. Và đến lúc này chỉ còn lại các đối tượng được hưởng chế độ hưu trí từ quỹ BHXH, khi đó quỹ BHXH thực sự trở thành nguồn duy nhất chịu trách nhiệm chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ hưu trí và đồng thời NSNN sẽ giảm bớt được gánh nặng do việc không phải chi trả như trước nữa. Cũng từ bảng số liệu trên ta thấy tốc độ tăng các đối tượng về hưu được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH là rất nhanh, khoảng trên 40%/năm. Như vậy, có thể thấy tốc độ tăng số đối tượng được hưởng lương hưu từ quỹ BHXH là rất nhanh cả về số tương đối và về số tuyệt đối. Với tốc độ tăng như vậy theo một số chuyên gia dự báo cũng như phân tích của ILO thì trong vài thập niên nữa số đối tượng được hưởng lương hưu từ quỹ BHXH sẽ cân bằng với số tham gia đóng góp vào quỹ BHXH. Như vậy tất yếu sẽ dẫn đến tình trạng thu không đủ chi và sẽ dẫn tới quỹ BHXH bị thâm hụt. Đây là một trong những vẫn đề hết sức quan trọng đang đặt ra nhiều thách thức cho các nhà quản lý quỹ BHXH cũng như quỹ hưu trí.
Ngoài ra, số đối tượng hưởng chế độ BHXH dài hạn hàng tháng như chế độ tuất và chế độ mất sức lao động- bệnh nghề nghiệp cũng có xu hướng tăng lên ngày một cao:
Bảng 8: Đối tượng hưởng chế độ BHXH hàng tháng ( 31/12 các năm)
Đơn vị tính: Người
1996 | 1997 | 1998 | 1999 | 2000 | 2001 | 2002 | |
Tuất | 178970 | 175709 | 179189 | 181580 | 179814 | 183962 | 193675 |
TNLĐ- BNN | 11315 | 13542 | 15980 | 17932 | 19612 | 21183 | 22347 |
2.2. Nguồn, quy mô và tổng chi cho chế độ hưu trí
Nguyễn Tiến Linh
48 Lớp Bảo Hiểm 41B