việc áp dụng quy phạm pháp luật trong bảo vệ QSHTT. Các quy phạm pháp luật trong thủ tục bảo vệ QSHTT phải xác định rõ ràng mức độ điều chỉnh của pháp luật đối với từng nhóm, từng quan hệ pháp luật cụ thể, phải xác định rõ hành vi xâm phạm QSHTT trong trường trường hợp nào, ở mức độ nào thì áp dụng biện pháp hành chính, biện pháp hình sự, biện pháp dân sự hay chỉ xử lý vi phạm hành chính… Ngoài ra, pháp luật thủ tục bảo vệ QSHTT phải cá thể hóa từng hành vi vi phạm này với hành vi vi phạm khác, trên cơ sở đó cá thể hóa chế tài xử phạt.
1.3.5. Pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ phải có tính dự báo
Để hoàn thiện hệ thống pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT đòi hỏi phải tiến hành theo hai hướng: một mặt phải khái quát các quan hệ xã hội có liên quan đến tình hình vi phạm QSHTT để thể chế hóa vào pháp luật, mặt khác phải dựa trên thực tiễn đó, kịp thời có những phát hiện mang tính dự báo những quan hệ pháp luật tất yếu sẽ phát sinh, để từ đó có những định hướng, giải pháp điều chỉnh quan hệ pháp luật sẽ phát sinh đó. Đây là hai quá trình được diễn ra đồng thời và có quan hệ mật thiết với nhau, do vậy cần xác định đây là một tiêu chí trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT. Tính dự báo của pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT còn dựa trên chiều hướng phát triển của việc bảo hộ quốc tế về QSHTT, trên mối quan hệ của WTO/TRIPs với WIPO và các điều ước có liên quan do WIPO quản lý. Việt Nam sẽ chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO trong tương lai gần, vì vậy Việt Nam đang tổ chức thực hiện các cam kết quốc tế một cách đồng bộ và sâu rộng đối với mọi mặt kinh tế - xã hội của đất nước. Trong điều kiện đó, tính dự báo của pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT đòi hỏi cần giải quyết được khả năng đáp ứng với các quan hệ pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT phát sinh trong thời gian tới.
Kết luận chương 1
Bảo vệ quyền sở hữu là khái niệm cơ bản trong khoa học pháp lý nói chung, chuyên ngành lý luận lịch sử nhà nước pháp quyền nói riêng. Tuy nhiên, khái niệm bảo vệ QSHTT, đặc biệt là khái niệm thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND lại chưa được đề cập một cách thỏa đáng và thuyết phục. Do vậy, cần thiết phải phân tích khái niệm bảo vệ QSHTT và khái niệm thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND, kết hợp với phân tích đặc điểm,
nội dung của thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND. Với những nội dung được trình bày trong chương 1 của luận văn, chúng tôi đã phân tích và đưa ra khái niệm chung nhất về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND. Đây cũng là những vấn đề chung phản ánh cơ sở lý luận cho việc hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND.
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân Việt Nam hiện nay - 2
- Khái Niệm Thủ Tục Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Trí Tuệ Tại Tòa Án Nhân Dân
- Bảo Vệ Quyền Sở Hữu Trí Tuệ Theo Thủ Tục Tố Tụng Hình Sự
- Bảo Vệ Qshtt Tại Tand Bằng Thủ Tục Giải Quyết Các Vụ Án Hành Chính
- Thủ Tục Xét Xử Các Vụ Án Hình Sự Về Các Tội Xâm Phạm Quyền Sở Hữu
- Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân Việt Nam hiện nay - 8
Xem toàn bộ 144 trang tài liệu này.
Chương 2
Pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân Việt Nam hiện nay
tuệ
2.1. Pháp luật thủ tục giải quyết các vụ án hành chính về quyền sở hữu trí
2.1.1. Quyền khởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
Thực tiễn cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền thi hành các quy định của
pháp luật về bảo hộ QSHTT, xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) các hành vi xâm phạm QSHTT không phải bao giờ cũng bảo đảm đúng pháp luật. Có những QĐHC, HVHC của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong việc bảo hộ QSHTT là trái pháp luật, xâm phạm QSHTT của chủ thể QSHTT. Đối với những trường hợp đó, theo quy định tại Điều 1 của Pháp lệnh năm 2006 thì "cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức theo thủ tục do pháp luật quy định có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình" [85]. Theo Điều 2 của Pháp lệnh năm 2006, thì cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để Tòa án giải quyết vụ án hành chính về khiếu kiện QĐHC, HVHC trong quản lý nhà nước về SHTT và chuyển giao công nghệ khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết và không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai;
- Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu và không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai;
- Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết
khiếu nại lần đầu trong trường hợp pháp luật quy định không được quyền khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai;
- Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai.
Trong các nội dung quản lý nhà nước về SHTT có việc xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách bảo hộ QSHTT; cấp và thực hiện các thủ tục khác liên quan đến Giấy chứng nhận đăng ký QTG, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan, Văn bằng bảo hộ các đối tượng SHCN, Bằng bảo hộ giống cõy trồng; trong việc thanh tra, kiểm tra việc chấp hành phỏp luật về SHTT, giải quyết khiếu nại, tố cỏo và xử lý vi phạm phỏp luật về SHTT. Trong Luật SHTT, Chương V quy định về chứng nhận đăng ký QTG, quyền liờn quan; Chương VI quy định về xác lập QSHCN đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhón hiệu, chỉ dẫn địa lý; Chương VIII quy định về xác lập quyền đối với giống cây trồng. Ngoài ra, Điều 211 của Luật SHTT quy định hành vi xâm phạm QSHTT bị xử phạt hành chính và giao cho Chính phủ quy định cụ thể về hành vi xâm phạm QSHTT bị xử phạt hành chính, hỡnh thức, mức phạt và thủ tục xử phạt cỏc hành vi đó.
Khi thực hiện cỏc nội dung quản lý nhà nước trên đây, nếu có QĐHC, HVHC mà chủ thể QSHTT cho rằng đó xõm phạm QSHTT của mỡnh, thỡ họ có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Tũa án giải quyết nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mỡnh về QSHTT.
2.1.2. Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính về quyền sở hữu trí tuệ
Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính về QSHTT cũng phải tuân thủ thủ tục giải quyết các vụ án hành chính nói chung được quy định trong Pháp lệnh năm 2006. Tuy nhiên, nó có những đặc thù riêng được quy định trong Luật SHTT.
* Khởi kiện, thụ lý vụ án
Khi nhận thấy có QĐHC, HVHC trong quản lý nhà nước về SHTT xâm phạm
quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu Toà án bảo vệ thì phải làm đơn khởi kiện trong thời hạn do pháp luật quy định. Do Luật SHTT không quy định cụ thể thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính, cho nên thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính về SHTT được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 30 Pháp lệnh năm 2006; cụ thể như sau:
Thứ nhất, thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính về SHTT là ba mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu mà khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết đó trong các trường hợp:
- Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu trong lĩnh vực quản lý nhà nước về SHTT, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết và không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai trong lĩnh vực quản lý nhà nước về SHTT;
- Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu trong lĩnh vực quản lý nhà nước về SHTT theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu và không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai trong lĩnh vực quản lý nhà nước về SHTT.
Thứ hai, thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính về SHTT là ba mươi ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai mà khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần hai, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết đó trong trường hợp đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai trong lĩnh vực quản lý nhà nước về SHTT.
Đơn khởi kiện là cơ sở pháp lý đầu tiên làm phát sinh việc bảo vệ QSHTT tại TAND bằng việc giải quyết vụ án hành chính. Đơn khởi kiện phải có các nội dung chính quy định tại khoản 5 Điều 30 của Pháp lệnh năm 2006, trong đó bắt buộc phải có nội dung QĐHC hay tóm tắt diễn biến của HVHC; nội dung quyết định giải quyết khiếu nại (nếu có); các yêu cầu Toà án giải quyết. Kèm theo đơn khởi kiện phải có các tài liệu,
chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của người khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp. Theo quy định tại khoản 2 Điều 203 của Luật SHTT thì nguyên đơn chứng minh mình là chủ thể QSHTT bằng một trong các chứng cứ: bản sao Giấy chứng nhận đăng ký QTG, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan, văn bằng bảo hộ; bản trích lục Sổ đăng kưý quốc gia về QTG, quyền liờn quan, Sổ đăng ký quốc gia về SHCN, Sổ đăng kưý quốc gia về giống cây trồng được bảo hộ; chứng cứ cần thiết để chứng minh căn cứ phát sinh QTG, quyền liên quan trong trường hợp không có Giấy chứng nhận đăng ký QTG, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan; chứng cứ cần thiết để chứng minh quyền đối với bí mật kinh doanh, tên thương mại, nhón hiệu nổi tiếng; bản sao hợp đồng sử dụng đối tượng SHTT trong trường hợp quyền sử dụng được chuyển giao theo hợp đồng.
Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP ngày 04-8-2006 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh năm 1998 như sau: Sau khi nhận được đơn khởi kiện vụ án hành chính và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, Chánh án hoặc Phó Chánh án được Chánh án ủy nhiệm, Chánh toà hoặc Phó Chánh tòa được Chánh án ủy quyền phân công một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Thẩm phán phải xem xét đối chiếu với điều kiện khởi kiện vụ án hành chính để tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục chung, nếu đủ điều kiện khởi kiện vụ án hành chính hoặc trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện và nêu rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, nếu không đủ điều kiện khởi kiện vụ án hành chính. Toà án thụ lý vụ án vào ngày người khởi kiện xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí. Trong trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, thì Toà án thụ lý vụ án vào ngày nhận được đơn khởi kiện.
* áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
Theo quy định tại Điều 206 của Luật SHTT thì khi khởi kiện hoặc sau khi khởi kiện, chủ thể QSHTT có quyền yêu cầu Toà án áp dụng BPKCTT trong các trường hợp: đang có nguy cơ xảy ra thiệt hại không thể khắc phục được cho chủ thể QSHTT; hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm QSHTT hoặc chứng cứ liên quan đến hành vi xâm phạm QSHTT có nguy cơ bị tẩu tán hoặc bị tiêu huỷ nếu không được bảo vệ kịp thời.
Yêu cầu áp dụng BPKCTT sau khi Toà án đã thụ lý vụ án phải được Toà án
xem xét trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; nếu có đủ căn cứ pháp luật và xét thấy cần thiết chấp nhận yêu cầu thì Toà án ra ngay quyết định áp dụng BPKCTT.
Yêu cầu áp dụng BPKCTT cùng với việc nộp đơn khởi kiện sẽ được Chánh án Toà án chỉ định ngay một Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu. Nếu nhận được đơn ngoài giờ làm việc (kể cả trong ngày nghỉ), thì người tiếp nhận đơn phải báo cáo ngay với Chánh án Toà án. Chánh án Toà án chỉ định ngay một Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn. Trong thời hạn 48 giờ, kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT, Thẩm phán phải xem xét đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo để xác định đơn khởi kiện có thuộc thẩm quyền thụ lý giải quyết của Toà án mà họ yêu cầu áp dụng BPKCTT hay không. Nếu không thuộc thẩm quyền thì trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT và các chứng cứ kèm theo cho họ. Nếu thuộc thẩm quyền thì tiếp tục xem xét giải quyết đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT theo thủ tục chung.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 206 của Luật SHTT thì Toà án quyết định áp dụng BPKCTT theo yêu cầu của chủ thể QSHTT trước khi nghe ý kiến của bên bị áp dụng biện pháp đó. Đây là quy định rất đặc thù mà thẩm phán phải tuyệt đối tuân thủ; nếu để bên bị áp dụng BPKCTT biết trước có yêu cầu áp dụng BPKCTT của chủ thể QSHTT thì họ có thể tẩu tán, huỷ bỏ hoặc xoá các dấu vết vi phạm.
Các BPKCTT được áp dụng trong việc giải quyết vụ án hành chính về QSHTT bao gồm: tạm đình chỉ việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu kiện; cấm hoặc buộc đương sự, tổ chức, cá nhân khác thực hiện những hành vi nhất định nếu xét thấy cần thiết cho việc giải quyết vụ án hành chính hoặc để bảo đảm cho việc thi hành án.
Quyết định áp dụng BPKCTT được thi hành ngay mặc dù có khiếu nại hoặc kiến nghị. Các đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát (VKS) có quyền kiến nghị với Chánh án Toà án đang giải quyết vụ án hành chính về quyết định áp dụng BPKCTT. Nếu có khiếu nại hoặc kiến nghị, thì trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, kiến nghị, Chánh án Toà án đang giải quyết vụ án phải xem xét và trả lời.
* Chuẩn bị xét xử vụ án
Việc chuẩn bị xét xử vụ án hành chính về QSHTT cũng phải tuân thủ các quy
định về chuẩn bị xét xử các vụ án hành chính nói chung quy định tại Chương VII của Pháp lệnh năm 2006. Theo quy định tại khoản 1 Điều 37 của Pháp lệnh năm 2006 thì trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Toà án phải thông báo bằng văn bản cho người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án và VKS cùng cấp về việc Toà án đã thụ lý vụ án. Văn bản thông báo phải có những nội dung chính quy định tại khoản 2 Điều 37 của Pháp lệnh năm 2006, đặc biệt phải nêu những vấn đề cụ thể người khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết; hậu quả pháp lý của việc người được thông báo không nộp cho Toà án văn bản ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi kiện. Trong thời hạn hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà phải ra một trong các quyết định: đưa vụ án ra xét xử; tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án; đình chỉ việc giải quyết vụ án. Đối với các vụ án phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì thời hạn nói trên không quá ba tháng. Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn đó cũng không được quá ba mươi ngày.
* Xét xử sơ thẩm vụ án
Theo quy định tại Điều 43 của Pháp lệnh năm 2006 thì kiểm sát viên VKS cùng cấp phải tham gia phiên toà sơ thẩm. Người khởi kiện; người bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự; người làm chứng; người giám định; người phiên dịch phải tham gia hoặc phải có mặt tại phiên toà sơ thẩm theo giấy triệu tập của Toà án. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử (HĐXX) xác định đầy đủ các tình tiết của vụ án bằng cách nghe ý kiến của người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, đối chiếu các ý kiến này với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được. Ngay sau khi phiên toà kết thúc, các đương sự được Toà án cấp trích lục bản án hoặc quyết định về vụ án. Chậm nhất là bảy ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định, Toà án phải cấp cho đương sự bản sao bản án hoặc quyết định theo yêu cầu của họ, đồng thời gửi cho VKS cùng cấp.
* Xét xử phúc thẩm vụ án