Soạn Thảo Cẩm Nang Thẩm Định Tài Chính Dự Án Đầu Tư

155

mức đầu tư thì dòng tiền hoạt động của dự án bao gồm toàn bộ nguồn có thể dùng

để trả nợ Ngân hàng bao gồm lợi nhuận sau thuế, khấu hao và lãi vay.

4.2.8. Giải pháp kỹ thuật thẩm định

Với thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư hiện nay tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam, tác giả nghĩ Ngân hàng cần phải đẩy mạnh hơn nữa việc cải tiến kỹ thuật thẩm định dựa trên các đề xuất chủ yếu sau:

Thứ nhất, cải tiến kỹ thuật xác định và đánh giá các hạng mục chi phí và lợi ích kinh tế của dự án trong thẩm định hiệu quả tài chính

Trước hết cần xác định khối lượng và định giá đúng giá trị tài chính của các khoản chi phí và lợi ích của dự án. Đối với các tác động liên kết và ảnh hưởng ngoại lai cần nội hóa thành hạng mục chi phí hay là lợi ích của dự án. Sau đó để định giá các hạng mục chi phí/lợi ích cần xây dựng các hệ số chuyển đổi và hệ số chuyển đổi tỷ giá hối đoái.

Thứ hai, cải tiến kỹ thuật lựa chọn và áp dụng phương pháp kinh tế các hạng mục chi phí /lợi ích dự án.

Hiện nay một số cán bộ thẩm định dự án bắt đầu nghiên cứu áp dụng phương pháp định giá kinh tế đầu vào/đầu ra của dự án. Tuy nhiên, đối với những dự án đầu tư có nhiều hạng mục đầu vào nhập khẩu, việc lựa chọn mặt bằng giá để định giá kinh tế luôn gặp những khó khăn. Có 2 phương pháp có thể sử dụng: phương pháp quy đổi theo mặt bằng giá quốc tế và phương pháp quy đổi theo mặt bằng giá trong nước.

Trong bối cảnh hiện nay, tác giả khuyến nghị nên dùng phương pháp quy đổi mặt bằng giá thế giới bởi vì hiện nay vẫn còn rất nhiều hạng mục đầu vào của dự án đầu tư ở Việt Nam được nhập khẩu và thanh toán bằng ngoại tệ. Việt Nam đang tăng cường hợp tác quốc tế và hội nhập, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, vốn ODA của các tổ chức quốc tế. Do đó, việc sử dụng mặt bằng giá thế giới sẽ hài hòa với quy trình thẩm định của các nước và các tổ chức quốc tế. Việc áp dụng mặt bằng giá thế giới sẽ giúp các nhà đầu tư cạnh tranh về hiệu quả so với các nước trong khu vực và trên thế giới.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 272 trang tài liệu này.

Thứ ba, cải tiến kỹ thuật tính toán và lựa chọn lãi suất chiết khấu trong thẩm

định hiệu quả tài chính dự án đầu tư .

Chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư trong hoạt động cho vay tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam (Lấy thực tế từ Ngân hàng thương mại cổ phần Công thương Việt Nam) - 20

Để tính toán chi tiêu hiệu quả của dự án đầu tư, cần xây dựng và sử dụng lãi suất chiết khấu tài chính.Việc tính toán lãi suất này cần tiến hành thận trọng trên cơ sở tham khảo ý kiến chuyên gia, tiêu chuẩn về lãi suất chiết khấu của các tổ chức có liên quan.

Thứ tư, cần cải tiến kỹ thuật phân tích rủi ro của dự án.

156

Trong điều kiện nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, nhiều thị trường mới hình thành và có nhiều biến động, việc thẩm định hiệu quả tài chính của dự án, cần phân tích rủi ro và độ nhạy của dự án trên cơ sở tính toán các chỉ tiêu của hiệu quả với các biến cố thay đổi. Để tránh đánh giá quá cao những tác động liên kết ảnh hưởng ngoại lai, cần thiết phải tính đến mức độ ảnh hưởng khi có hoặc không có của liên kết hay tác động trong phân tích về nguy cơ và độ nhạy của các chỉ tiêu hiệu quả.

Việc cải tiến kỹ thuật thẩm định đòi hỏi người thực hiện phải biết kết hợp kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm trong việc tính toán và vận dụng một cách linh hoạt các chỉ tiêu, tiêu chuẩn thẩm định cho từng dự án cụ thể. Từ đó đưa ra các báo cáo thẩm định có độ tin cậy cao, không những phục vụ cho công tác ra quyết định đầu tư cho vay, thu nợ hợp lý, an toàn mà còn giúp cho chủ đầu tư và các chủ thể khác tham gia có bản đồ định hướng cho việc duy trì và nâng cao hiệu quả dự án trong mọi khâu của chu kỳ dự án.

4.2.9. Các giải pháp khác

4.2.9.1. Soạn thảo cẩm nang thẩm định tài chính dự án đầu tư

Để tạo điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện những thay đổi về mặt kỹ thuật, Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam nên biên soạn và phát hành “Cẩm nang thẩm định tài chính dự án đầu tư ”, trong đó có các kỹ thuật và quy trình áp dụng trong việc xác định, đánh giá tính toán và thẩm định các khía cạnh liên quan của dự án đầu tư được mô tả trinh bày chi tiết.

Cuốn “Cẩm nang hướng dẫn” phải trình bày được tất cả các kỹ thuật hiện đại, có tính khả thi và có thể áp dụng trong việc thẩm định và đánh giá tất cả các khía cạnh của dự án, Cẩm nang cần trình bày cách tiếp cận, kỹ thuật và quy trình thẩm định tài chính dự án đầu tư dựa trên các chỉ tiêu hiệu quả và tiêu chuẩn đánh giá. Cẩm nang cũng cần trình bày các nghiên cứu tình huống có thể áp dụng trong từng trường hợp cụ thể của dự án, từ đó giúp các cán bộ áp dụng một cách dễ dàng trong quá trình thẩm định. Bên cạnh đó, việc trang bị sách điện tử và phần mềm thẩm định tài chính dự án đầu tư, phát triển dựa trên chuẩn mực quốc tế và phù hợp với điều kiện Việt Nam sẽ là phương tiện vô cùng hữu ích cho các nhà thẩm định dự án đầu tư.

4.2.9.2. Thành lập trung tâm tính toán và dự báo

Việc tính toán giá cả kinh tế đầu vào và đầu ra của dự án cũng như việc xác định lãi suất chiết khấu sử dụng trong thẩm định tài chính dự án đầu tư là rất phức tạp và đòi hỏi một hệ thống thông tin dữ liệu đầy đủ, chính xác và cập nhật. Song, việc thu thập và xử lý thông tin ở cấp các chi nhánh, đơn vị thành viên trong hệ

157

thống rất khó khăn, mặc dù các cán bộ thẩm định có thể được tham gia các khóa

đào tạo thực hành.

Do vậy, cần thiết phải thành lập trung tâm tính toán và dự báo kinh tế ngành với chức năng chủ yếu là tính toán và cung cấp cho các đơn vị thành viên các thông tin và dự báo về thị trường đầu vào và đầu ra, hệ số chuyển đổi, tỷ lệ chiết khấu …. phục vụ công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư. Trung tâm trực thuộc ban thẩm định Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam, hoạt động độc lập và có liên kết chặt chẽ với các cơ quan quản lý Nhà nước, viện nghiên cứu, các trường đại học kinh té. Đồng thời, trung tâm cần kết nối với mạng dữ liệu và thông tin toàn ngành vừa để truy cập thông tin vừa để cung cấp các thông số phục vụ công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong toàn ngành. Khi trung tâm trên hoạt động có hiệu quả sẽ mang lại lợi ích rất lớn trong việc nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư của Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam.

4.3. Một số kiến nghị

4.3.1. Đối với Chính Phủ

Chính Phủ nên có biện pháp kinh tế, hành chính buộc các doanh nghiệp phải chấp hành đúng pháp lệnh kế toán, thống kê. Thực hiện chế độ kiểm toán bắt buộc hàng năm đối với tất cả các doanh nghiệp để đảm bảo tính trung thực, chính xác của các con số trên báo cáo tài chính. Hệ thống kế toán được áp dụng ở Việt Nam hiện nay là phù hợp với tiêu chuẩn Quốc tế nhưng việc thực hiện còn chưa được nghiêm túc. Ngoài một số doanh nghiệp Nhà nước, một số doanh nghiệp tư nhân làm ăn lớn, liên quan đến hoạt động xuất khẩu có hoạt động kế toán nghiêm túc, tuân theo qui định của Nhà nước, còn lại hầu hết các doanh nghiệp tư nhân làm kế toán sơ sài tùy tiện, chủ yếu là theo hình thức ghi sổ. Mặt khác, một số doanh nghiệp còn có tình trạng thực hiện 2 hệ thống kế toán để đối phó. Do đó, cán bộ thẩm định rất khó đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp được chính xác. Vì vậy, cần phải thực hiện chế độ kế toán và kiểm toán bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp. Nhưng ở Việt Nam công ty kiểm toán VACO còn rất trẻ thiếu kinh nghiệm và hầu như chỉ hoạt động ở các thành phố lớn. Mặt khác, số liệu của Vaco cũng chưa được qui định về độ chính xác nên Ngân hàng cũng không tin tưởng hoàn toàn vào đó. Bởi vậy, để có những số liệu kế toán trung thực, Nhà nước phải có chính sách phát triển các công ty kiểm toán độc lập, thực sự mạnh cả về trình độ lẫn kinh nghiệm. Bên cạnh đó phải có các văn bản pháp qui bắt buộc tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành

158

phần kinh tế sử dụng một hệ thống kế toán đồng bộ và thường xuyên thanh tra, kiểm tra, xử lý kịp thời doanh nghiệp vi phạm.

Hiện nay, chúng ta chưa có một cơ quan thống kê nào đứng ra tập hợp các số liệu nhằm đưa ra các tỷ lệ trung bình ngành cho các doanh nghiệp và Ngân hàng khai thác và sử dụng. Do vậy, Nhà nước cần lập ra một cơ quan chuyên trách nghiên cứu và ban hành hệ thống các chỉ tiêu tài chính làm cơ sở so sánh cho các doanh nghiệp và Ngân hàng. Hơn nữa, Chính Phủ cũng nên nhanh chóng hoàn thiện môi trường pháp lý, đảm bảo tính đầy đủ, thống nhất cũng như nâng cao hiệu lực trong việc điều chỉnh Pháp luật đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh. Kịp thời ban hành và thực thi các văn bản, thông tư cụ thể hóa các Nghị định, Nghị quyết trong lĩnh vực tài chính tiền tệ Ngân hàng.

Mặt khác, hoạt động của các Ngân hàng và các doanh nghiệp chịu sự điều chỉnh của các văn bản pháp luật và các qui định khác. Vì vậy, một môi trường pháp lý thuận lợi sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của Ngân hàng cũng như các doanh nghiệp được ổn định và ít rủi ro. Mặc dù Chính Phủ cũng đã ban hành một số văn bản pháp luật điều chỉnh các quan hệ kinh tế như: Luật Doanh nghiệp, Pháp lệnh Ngân hàng, Luật Công ty….. song còn cần nghiên cứu và hoàn thiện hơn.

4.3.2. Đối với các Bộ ngành liên quan

Các Bộ và các cơ quan chủ quản cần hỗ trợ các doanh nghiệp hơn nữa trong việc nâng cao trình độ, chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư thuộc lĩnh vực ngành quản lý, kết quả thẩm định dự án này là căn cứ quan trọng để các Ngân hàng bám sát, sử dụng trong quá trình thẩm định dự án. Ngoài ra, cần củng cố và nâng cao tinh thần trách nhiệm của các cơ quan tư vấn và hoạt động tư vấn, cơ quan cung cấp thông tin để đáp ứng nhu cầu tư vấn của các NHTM trong thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính dự án nói riêng.

Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn trung bình ngành cho các chỉ tiêu đánh giá năng lực tài chính doanh nghiệp vì từ trước đến nay, việc phân tích các chỉ tiêu tài chính trong khâu phân tích tài chính doanh nghiệp mới chỉ dừng lại ở việc so sánh sự biến động qua các thời kỳ, việc đánh giá như vậy là chưa hoàn thiện bởi vì chưa so sánh được mặt bằng chung toàn ngành, cán bộ thẩm định sau khi tính toán các chỉ tiêu tài chính chưa có cơ sở hoặc tiêu chuẩn chung để đánh giá. Vì thế, để góp phần hoàn thiện hơn phần phân tích tài chính doanh nghiệp vay vốn phục vụ cho công tác thẩm định doanh nghiệp trước khi cho vay thì các Bộ ngành cần đưa ra được hệ thống các chỉ tiêu trung bình ngành làm tiêu thức đánh giá, so sánh.

159

Bộ kế hoạch và đầu tư cần có các văn bản hướng dẫn cụ thể hơn về trình tự xây dựng, lập dự án đầu tư, kịp thời xây dựng và công bố rộng rãi quy hoạch ngành, vùng và lãnh thổ…. để định hướng các dự án đầu tư vào khu vực, ngành và chương trình kinh tế có hiệu quả phục vụ phát triển kinh tế đất nước.

Bộ tài chính cần tham mưu để Quốc hội, Chính phủ ban hành các khung pháp lý, quy định rõ về tính công khai, minh bạch tài chính để phục vụ yêu cầu quản lý Nhà nước về tài chính doanh nghiệp cũng như vay vốn tại Ngân hàng. Bộ cần phối hợp thường xuyên với thanh tra Nhà nước, kiểm toán Nhà nước và các cơ quan chức năng thường xuyên, định kỳ tiến hành kiểm tra, kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp, các dự án đầu tư lớn…. nhằm có được thông tin tin cậy về tình hình tài chính và tuân thủ các quy định về tài chính của Nhà nước.

Hàng năm, các Bộ chủ quản cần ban hành các khung mức giá, định mức kinh tế kỹ thuật , đầu tư…. có tính đến mức lạm phát từng năm cho ngành lĩnh vực cụ thể do Bộ ngành quản lý để các bên liên quan có căn cứ khoa học và tin cậy trong việc lập dự án đầu tư, tính toán chi phí đầu tư, xác định tổng mức vốn đầu tư, dự trù chi phí, kế hoạch sản xuất kinh doanh hàng năm một cách thích hợp. Do vậy, đề nghị các Bộ cần thường xuyên hệ thống hóa thông tin ngành quản lý và công bố thông tin rộng rãi qua báo chí, mạng Internet, các trung tâm dữ liệu, trung tâm thông tin chuyên ngành hoặc có thê rcung cấp cho Ngân hàng thông qua cơ chế “Mua bán thông tin” để chủ đầu tư và Ngân hàng thuận tiện trong việc tra cứu, tham khảo.

Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ ngành và các chính quyền địa phương có liên quan trong việc thẩm định , phê duyệt dự án nhằm nâng cao chất lượng và độ tin cậy của các báo cáo nghiên cứu khả thi cũng như các quyết định phê duyệt đầu tư của các cấp làm cơ sở pháp lý quan trọng và thực sự có giá trị cho các Ngân hàng. Các cơ quan, ban ngành, chính quyền địa phương cần phối hợp, trao đổi thông tin thường xuyên về các lĩnh vực đầu tư và các doanh nghiệp thuộc ngành mình, địa phương mình quản lý để có định hướng, quy hoạch cho phù hợp tránh tình trạng có lĩnh vực thì đầu tư tràn lan, có lĩnh vực thì đầu tư không đáp ứng được nhu cầu thực tế.

4.3.3. Đối với Ngân hàng Nhà nước

Ngân hàng Nhà nước với tư cách là cơ quan quản lý vĩ mô về hoạt động Ngân hàng cần thực hiện chức năng chỉ đạo, định hướng và xây dựng một hệ thống thông tin nhiều chiều có chất lượng cao có thể cung cấp cho các NHTM thông qua

160

cơ chế “Mua bán thông tin”. Cụ thể là có chính sách phát triển trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (CIC) trở thành một cơ quan cung cấp thông tin chuyên nghiệp, đáng tin cậy cho các NHTM.

Để nâng cao chất lượng thông tin tại CIC, cần có các định chế bắt buộc các NHTM thực hiện nghiêm chỉnh việc cung cấp các thông tin cập nhật kịp thời về tình hình tài chính, quan hệ tín dụng… của các doanh nghiệp với các Ngân hàng. Ngoài ra, có chế định yêu cầu các tổ chức, cá nhân có liên quan có trách nhiệm cung cấp thông tin cho Ngân hàng Nhà nước. Đồng thời mở rộng thu thập nguồn thông tin từ nước ngoài thông qua việc tiếp cận và tham gia vào các cơ quan thông tin tín dụng lớn như Hiệp hội thông tin tín dụng Châu Á, diễn đàn thông tin tín dụng ASEAN, các cơ quan xếp hạng tín dụng trong khu vực. Thường xuyên tổ chức đánh giá xếp hạng các doanh nghiệp theo định kỳ và công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Ngoài những trợ giúp về mặt thông tin, Ngân hàng Nhà nước cần tăng cường hỗ trợ về phát triển đội ngũ nhân viên và kinh nghiệm thẩm định tài chính dự án đầu tư với các NHTM. Trên cơ sở thẩm định dự án của các cơ quan khoa học, các Bộ ngành và các NHTM, Ngân hàng Nhà nước cần ban hành một cẩm nang chung về quy trình và nội dung thẩm định dự án mẫu phù hợp với thực tiễn Việt Nam để các NHTM có một căn cứ chuẩn trong việc hoàn thiện quy trình thẩm định dự án đầu tư tại Ngân hàng mình.

Ngân hàng Nhà nước cần giữ mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan quản lý Nhà nước quan trọng như Bộ kế hoạch đầu tư, Bộ công nghiệp, Bộ giao thông vận tải, Bộ công an, tổng cục thống kê để trao đổi thu thập thông tin về cơ chế, chính sách có liên quan đến lĩnh vực thẩm định dự án. Đối với NHTM, cũng cần có sự phối hợp trao đổi thông tin và kinh nghiệm về thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính dự án đầu tư nói riêng giữa các các bộ phận làm công tác này tại các Ngân hàng .

4.3.4. Đối với các chủ đầu tư

Các chủ đầu tư cần nhận thức đúng đắn vai trò của thẩm định dự án nói chung và thẩm định tài chính dự án đầu tư nói riêng để có thể đánh giá một cách khách quan, nghiêm túc về hiệu quả tài chính của dự án từ đó có định hướng đầu tư đúng mức, hiệu quả cũng như đảm bảo tính khả thi của dự án. Hơn nữa, chủ đầu tư cũng cần chấp hành nghiêm chỉnh chế độ thống kê, kế toán, kiểm toán đồng thời chủ động tích cực cung cấp thông tin trung thực cho các Ngân hàng làm cơ sở cho phân tích tài chính dự án và thẩm định tài chính dự án đầu tư. Mặt khác, chủ đầu tư và các

161

đơn vị tư vấn cần không ngừng nâng cao kiến thức và năng lực quản trị doanh nghiệp, năng lực lập và thẩm định dự án đầu tư. Trên cơ sở nghiên cứu kỹ lưỡng những nội dung nghiên cứu về thị trường, về kỹ thuật và về tài chính của dự án, tổng mức vốn đầu tư của dự án cần được tính toán một cách khách quan, cụ thể, chi tiết, đầy đủ các hạng mục chủ yếu có dự phòng với một tỷ lệ hợp lý, tránh tình trạng đề xuất tổng mức vốn đầu tư thấp để dễ được phê duyệt nhưng khi thực hiện lại gặp rất nhiều khó khăn hoặc dự tính vốn đầu tư cao để vay được nhiều vốn của Ngân hàng vừa gây lãng phí, thất thoát vốn vừa làm giảm hiệu quả của dự án đầu tư.

4.4. Hạn chế và hướng nghiên cứu tiếp theo

Luận án được thực hiện với mục tiêu xây dựng một mô hình đánh giá các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam. Về cơ bản, luận án đã đạt được các mục tiêu ban đầu đặt ra khi xây dựng được mô hình đánh giá, kiểm chứng mô hình thông qua 50 dự án đầu tư của Vietinbank trong giai đoạn 2004 - 2014. Tuy nhiên, bên cạnh những mục tiêu đã đạt được, nghiên cứu vẫn còn có những hạn chế nhất định cần được bổ sung hoàn thiện cho các nghiên cứu trong tương lai. Đó là:

Thứ nhất, nghiên cứu mới chỉ tập trung vào đánh giá những nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định dự án đầu tư ở một khía cạnh tài chính tại một NHTM là Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam chứ chưa nghiên cứu được các khía cạnh khác trong nội dung thẩm dịnh dự án như: khía cạnh thị trường, pháp lý, khoa học công nghệ, kinh tế; và nghiên cứu cũng chưa mở rộng ra các NHTM khác ở Việt Nam.

Thứ hai, do trên thế giới không có nghiên cứu nào về chất lượng thẩm dịnh tài chính dự án đầu tư tại Ngân hàng nên phần tổng quan của luận án còn ít, chủ yếu là các công trình nghiên cứu trong nước, do đó mà mô hình nghiên cứu và các nhân tố ảnh hưởng chưa được xây dựng trên các nền tảng lý thuyết vững chắc và cũng không có sự kế thừa từ các công trình nghiên cứu trước đây trên thế giới.

Thứ ba, cũng chính vì không được kế thừa từ các nghiên cứu trước đây trên thế giới nên bộ thang đo cho các nhân tố ảnh hưởng được xây dựng bằng phương pháp Delphi vì vậy mà các câu hỏi đối với lãnh đạo và cán bộ thẩm định dự án của Ngân hàng được thiết kế dưới dạng nhận định tích cực nhiều hơn nhận định tiêu cực.

Thứ tư, do luận án chỉ nghiên cứu giới hạn bởi một NHTM Việt Nam, nên quy mô điều tra trong luận án còn khá nhỏ. Điều này có thể ảnh hưởng tới tính khái quát hóa của nghiên cứu.

162

Bởi vậy, trong tương lai các nghiên cứu về chất lượng thẩm định tài chính dự án đầu tư tại NHTM, các tác giả cần tập trung vào một số hướng sau:

Thứ nhất, các nghiên cứu tiếp theo nên tiếp tục mở rộng nghiên cứu thêm các khía cạnh khác trong nội dung thẩm dịnh dự án đầu tư tại Ngân hàng để đảm bảo tính toàn diện hơn.

Thứ hai, bổ sung thêm các nhân tố khác ngoài bảy nhân tố chính được trình bày trong nghiên cứu này để gia tăng khả năng giải thích của mô hình nghiên cứu.

Thứ ba, tiếp tục phát triển và hiệu chỉnh bộ thang đo về các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng thẩm định dự án đầu tư cho các nghiên cứu mới một cách phù hợp hơn cho từng nghiên cứu.

Thứ tư, các nghiên cứu tiếp theo nên tiếp tục mở rộng quy mô điều tra lớn hơn ở phạm vi các NHTM trên địa bàn tỉnh hay thành phố nào đó, hoặc có thể là các NHTM ở Việt Nam, sử dụng những phương pháp lấy mẫu xác suất sẽ đảm bảo tính khái quát cao hơn cho nghiên cứu.

Ngày đăng: 28/04/2022