TIỂU KẾT CHƯƠNG 3
Trên cơ sở phân tích lý luận cơ sở ở chương 2, chương 3 của luận án tập trung phân tích, đánh giá thực trạng chất lượng công chức QLVH của Bộ VHTTDL giai đoạn năm 2011-2016 một cách toàn diện. Tác giả rút ra các kết luận như sau:
1. Về những điểm mạnh: Công tác quy hoạch đội ngũ công chức QLVH được thực hiện khá tốt; sức khỏe, thể lực tương đối đảm bảo; trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp nhìn chung đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao; phẩm chất đạo đức, tác phong nghề nghiệp tương đối tốt; kết quả thực hiện hoàn thành nhiệm vụ khá tốt.
2. Những hạn chế: Sức khỏe, thể chất của một bộ phận công chức chưa thật sự được đảm bảo; trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp của một số công chức chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu; phẩm chất đạo đức, ý thức, tác phong nghề nghiệp của một bộ phận chưa cao; kết quả thực hiện, hoàn thành nhiệm vụ trong một số lĩnh vực còn nhiều hạn chế.
3. Nguyên nhân của những hạn chế, gồm: Một số chế độ, chính sách đối với công chức QLVH còn có những bất hợp lý nhất định; Bộ VHTTDL chưa thật quan tâm đúng mức đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức QLVH; chế độ tuyển dụng, sử dụng, đánh giá và đãi ngộ công chức QLVH còn bộc lộ nhiều bất cập; một bộ phận công chức còn thiếu quyết tâm, cố gắng tự nỗ lực vươn lên; thu nhập của công chức còn thấp, chưa đảm bảo được nhu cầu bình thường của cuộc sống; công tác quản lý công chức còn hạn chế cùng với sự tác động những mặt trái của KTTT.
CHƯƠNG 4
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC QUẢN LÝ VĂN HÓA CỦA BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
Có thể bạn quan tâm!
- Trình Độ Đào Tạo Về Qlnn Của Công Chức Qlvh Của Bộ Vhttdl Giai Đoạn 2011 – 2016
- Về Kết Quả Thực Hiện Nhiệm Vụ Của Công Chức Quản Lý Văn Hóa
- Kết Quả Khảo Sát Nguyên Nhân Hạn Chế Về Trình Độ Chuyên Môn, Nghiệp Vụ Của Công Chức Qlvh
- Nâng Cao Chất Lượng Công Chức Quản Lý Văn Hóa Phải Chú Ý Các Khâu Tuyển Dụng, Sử Dụng Và Đãi Ngộ Công Chức
- Nâng Cao Thể Chất Và Tinh Thần Cho Công Chức Quản Lý Văn Hóa
- Nâng Cao Chất Lượng Tuyển Dụng, Bố Trí, Sử Dụng Công Chức Hợp Lý
Xem toàn bộ 197 trang tài liệu này.
4.1. Những căn cứ để xác định quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng công chức quản lý văn hóa
4.1.1. Quan điểm của Đảng về phát triển văn hóa Việt Nam
Thứ nhất, văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển KT-XH.
Chăm lo văn hoá là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển KT-XH bền vững.
Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hoá là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự phát triển kinh tế. Các nhân tố văn hoá phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật, kỷ cương,… biến thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất của phát triển (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016).
Thứ hai, nền văn hóa chúng ta đang xây dựng là nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Tiên tiến là yêu nước và tiến bộ mà nội dung cốt lõi là lý tưởng độc lập dân tộc và CNXH theo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm mục tiêu tất cả vì con người, vì hạnh phúc và sự phát triển phong phú, tự do, toàn diện của con người trong mối quan hệ hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa xã hội và tự nhiên.
Tiên tiến không chỉ về nội dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải nội dung.
Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, y chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân
ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống…
Bản sắc văn hoá dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo. Bảo vệ bản sắc dân tộc phải gắn kết với mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu có chọn lọc những cái hay, cái tiến bộ trong văn hoá các dân tộc khác. Giữ gìn bản sắc dân tộc phải đi liền với chống lạc hậu, lỗi thời trong phong tục, tập quán, lề thói cũ.
Thứ ba, nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Cộng đồng 54 dân tộc sống trên đất nước Việt Nam đều có những giá trị và sắc thái văn hoá riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hoá Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc là cơ sở để giữ vững sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng văn hoá của các dân tộc.
Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Thứ tư, xây dựng và phát triển văn hoá là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng.
Phải xây dựng đồng bộ môi trường văn hóa, trong đó chú trọng vai trò của gia đình, cộng đồng. Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế.
Phát triển nền KTTT định hướng XHCN Việt Nam nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Mọi công dân đều tham gia sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hoá nước nhà. Công nhân, nông dân, trí thức là nền tảng khối đại đoàn kết toàn dân, cũng là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Đội ngũ trí thức gắn bó với nhân dân giữ vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016).
Thứ năm, văn hoá là một mặt trận; xây dựng, phát triển văn hoá là sự nghiệp cách mạng lâu dài của toàn Đảng, toàn dân, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.
Bảo tồn và phát huy những di sản văn hoá tốt đẹp của dân tộc, sáng tạo nên những giá trị văn hoá mới XHCN, làm cho những giá trị ấy thấm sâu vào cuộc sống của toàn xã hội và mỗi con người, trở thành tâm lý và tập quán tiến bộ, văn minh. Đây là một quá trình cách mạng đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhiều thời gian.
Trong công cuộc đó, “xây” đi đôi với “chống”, nhưng lấy “xây” làm chính. Cùng với việc giữ gìn và phát triển những di sản văn hoá quí báu của dân tộc, tiếp thụ những tinh hoa văn hoá thế giới, sáng tạo, vun đắp nên những giá trị mới, phải tiến hành kiên trì cuộc đấu tranh bài trừ các hủ tục, các thói hư tật xấu, nâng cao tính chiến đấu, chống mọi mưu toan lợi dụng văn hoá để thực hiện “diễn biến hoà bình”.
4.1.2. Dự báo xu hướng phát triển văn hóa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế thời gian tới
Trong điều kiện hiện nay cũng như trong những năm tới cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại trên thế giới phát triển như vũ bão, đặc biệt là sự bùng nổ của công nghệ thông tin với công nghệ số và internet, ... làm cho lực lượng sản xuất mang tính quốc tế hóa rất cao; các yếu tố của quá trình sản xuất và tiêu thụ hàng hóa vượt ra ngoài phạm vi quốc gia và mang tính toàn cầu, làm cho sự phụ thuộc vào nhau giữa các quốc gia trong quá trình phát triển ngày càng lớn. Để phát triển, mọi quốc gia đều phải ngày càng mở rộng quan hệ kinh tế với bên ngoài. Vì vậy, toàn cầu hoá và HNQT là xu hướng, là quy luật phát triển tất yếu trong điều kiện hiện nay. HNQT luôn được diễn ra một cách toàn diện trên tất cả mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh.
Quá trình HNQT luôn có tính hai mặt: vừa tạo ra những cơ hội, vừa đặt ra những thách thức cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Điều đó đòi hỏi mỗi quốc gia cần chủ động tham gia HNQT. Trong quá trình hội nhập các quốc gia phải biết và tranh thủ nắm bắt, tận dụng được những yếu tố tích cực, những thế mạnh quốc tế; đồng thời phải biết phát huy những mặt mạnh của mình, giảm và loại bỏ những yếu tố tiêu cực, lạc hậu của quốc gia để phát triển. Lịch sử đã chứng minh nếu quốc gia nào biết tiếp thu những giá trị, những yếu tố tích cực của bên ngoài, phát huy thế mạnh trong nước; đồng thời biết loại bỏ những yếu tố lạc hậu, tiêu cực của thế giới và trong nước thì quốc gia đó sẽ phát triển nhanh chóng và ngược lại.
Trong lĩnh vực văn hóa, hội nhập giao lưu quốc tế về văn hóa có vai trò đặc biệt quan trọng, thậm trí có lúc mang tính quyết định đối với sự thành công của các cuộc hội đàm về ngoại giao, kinh tế, chính trị, cởi trói các mâu thuẫn và sự hiểu nhầm giữa
các quốc gia với nhau. Vì vậy, có thể khẳng định HNQT về văn hóa không những là tất yếu khách quan trong HNQT mà nó còn đem lại nhiều lợi ích to lớn cho quốc gia.
Nghiên cứu các mô hình chiến lược, chính sách QLVH của các nước trên thế giới, mỗi nước đều có mô hình, cách thức quản lý điều hành văn hóa riêng, tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước. Nhưng về cơ bản các chính sách của mỗi nước về phát triển văn hóa đều tập trung vào việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc; giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc; phát huy sáng tạo của nghệ sĩ; tôn trọng và phát huy tính đa dạng văn hóa; phát triển các ngành công nghiệp văn hóa; tăng cường hợp tác giao lưu văn hóa quốc tế, tuyên truyền, nâng cao giới thiệu hình ảnh và bản sắc văn hóa dân tộc ra bên ngoài đi đôi với việc tiếp thu có chọn lọc những tinh hóa văn hóa thế giới.
Đối với Việt Nam, chúng ta thực hiện chủ trương chủ động HNQT về văn hóa ngày càng sâu rộng, nhằm phát triển nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc, gắn liền với tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Trong HNQT về văn hóa, chúng ta phải chủ động hội nhập vào “sân chơi” chung của thế giới. Trong quá trình đó tất yếu sẽ có những “luồng gió” văn hóa của các nước tràn vào Việt Nam, bao gồm cả những “luồng gió lành”, nhưng cũng có không ít những “luồng gió độc”. Vì vậy, chúng ta cần chủ động đón những “luồng gió lành”, tức là phải chủ động tiếp thu có chọm lọc những tinh hoa, những giá trị văn hóa tiến bộ của các quốc gia, của nhân loại, nhằm làm lành mạnh, làm giầu thêm giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam. Đồng thời phải giới thiệu và đưa văn hóa Việt Nam, đưa đất nước, nhân cách con người Việt Nam đến với thế giới, nhằm đóng góp, làm đa dạng, phong phú và làm giầu thêm giá trị văn hóa của nhân loại.
Mặt khác trong HNQT về văn hóa, chúng ta cần chủ động chống lại những “luồng gió độc” của thế giới làm hủy hoại tính đậm đà bản sắc dân tộc của nền văn hóa truyền thống lâu đời dân tộc Việt Nam. Chúng ta cần tuyên truyền, giác ngộ, đấu tranh, chống lại tâm lý “sính” văn hóa ngoại; chống tư tưởng coi tất cả mọi cái mới, cái lạ toàn là cái tích cực, cái văn minh, hiện đại; còn văn hóa truyền thống dân tộc tất cả đều là cái lỗi thời, lạc hậu cần xóa bỏ.
Để chủ động HNQT về văn hóa thành công, chúng ta cần thực hiện tốt các vấn
đề có tính nguyên tắc cơ bản sau:
- Phải chủ động tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của các dân tộc, các quốc gia trên thế giới.
- Chủ động ngăn ngừa, kiên quyết đấu tranh loại bỏ các sản phẩm văn hóa đồi bại, làm hủy hoại văn hóa truyền thống dân tộc Việt nam.
- Chủ động đưa những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam hội nhập và làm giầu, phong phú thêm giá trị văn hóa của nhân loại.
Tóm lại, trong HNQT về văn hóa phải chủ động “đón gió lành, ngăn gió độc”, “hòa nhập” nhưng tránh “hòa tan”. Trong xu thế toàn cầu hóa, cần phải đẩy mạnh hợp tác quốc tế trên cơ sở giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, nguyên lý thống nhất trong đa dạng, sẽ tạo nên một bước phát triển mới của văn hóa.
Cần xác định phát triển văn hóa Việt Nam trong điều kiện HNQT phải trở thành một đột phá chiến lược, cùng với ba đột phá trong lĩnh vực KT-XH, trở thành sức mạnh tổng hợp để tạo nên bước phát triển mới, nhanh và bền vững của đất nước.
4.1.3. Chiến lược phát triển công chức quản lý văn hóa của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030
* Về mục tiêu:
Xây dựng đội ngũ công chức chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động, đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN về văn hóa trong bối cảnh HNQT và chiến lược phát triển KT-XH của đất nước.
* Về nhiệm vụ và giải pháp:
Thứ nhất, hoàn thiện các hệ thống pháp luật của Bộ VHTTDL trong công tác quản lý, sử dụng đội ngũ công chức:
- Xây dựng và ban hành theo thẩm quyền quy chế, quy định của Bộ VHTTDL trong việc quản lý, sử dụng đội ngũ công chức (phân cấp công tác cán bộ; đánh giá công chức, viên chức; bổ nhiệm, bổ nhiệm lại; dân chủ;...).
- Xây dựng quy định về tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo, quản lý và tiêu chuẩn chức danh công chức theo thẩm quyền của Bộ quản lý chuyên ngành.
Thứ hai, triển khai, thực hiện Đề án vị trí việc làm và cơ cấu ngạch công chức, cơ cấu chức danh công chức:
Rà soát đội ngũ công chức; xác định biên chế cần thiết theo vị trí việc làm của từng cơ quan, đơn vị.
Thứ ba, đổi mới các khâu trong công tác quản lý, sử dụng công chức:
- Đổi mới và nâng cao chất lượng tuyển dụng công chức:
+ Tuyển dụng công chức công khai, minh bạch, áp dụng công nghệ thông tin trong thi tuyển.
+ Gắn thẩm quyền tuyển dụng với thẩm quyền sử dụng.
+ Xây dựng quy định theo thẩm quyền chế độ tiến cử và chính sách thu hút, phát hiện, trọng dụng và đãi ngộ người có tài năng trong hoạt động công vụ ngành VHTTDL.
- Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng công chức:
Trên cơ sở vị trí việc làm các cơ quan, đơn vị rà soát và đề xuất xây dựng các chương trình bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên ngành cho cán bộ, công chức.
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quy hoạch cán bộ:
+ Xây dựng cơ chế phát hiện, giới thiệu cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số có triển vọng để chủ động chuẩn bị nguồn cán bộ quy hoạch cho các chức danh lãnh đạo, quản lý, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài.
+ Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp giai
đoạn 2016-2021.
- Thực hiện chủ trương, giải pháp đổi mới công tác bổ nhiệm, bổ nhiệm lại:
+ Tăng cường thực hiện chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước; thực hiện chủ trương, giải pháp đổi mới công tác bổ nhiệm, bổ nhiệm lại nhằm bảo đảm công tác lựa chọn cán bộ thực hiện công khai, dân chủ.
- Xây dựng, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống quy chế, quy định trong công tác bổ nhiệm, bổ nhiệm lại.
- Hoàn thiện và đổi mới công tác đánh giá cán bộ, công chức:
Quy định thẩm quyền, trách nhiệm của tập thể lãnh đạo, cá nhân, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị trong công tác quản lý, giám sát công chức, viên chức.
- Xây dựng và hoàn thiện các chế độ chính sách đối với đội ngũ công chức, tăng thẩm quyền, trách nhiệm đối với người đứng đầu.
- Thực hiện nghiêm túc công tác báo cáo thống kê công chức vào nền nếp; xây dựng và duy trì cơ sở dữ liệu đội ngũ công chức.
4.2. Quan điểm, mục tiêu nâng cao chất lượng công chức quản lý văn hóa của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
4.2.1. Quan điểm nâng cao chất lượng công chức quản lý văn hóa
4.2.1.1. Nâng cao chất lượng công chức quản lý văn hóa phải xuất phát từ yêu cầu phát triển văn hóa bền vững trong điều kiện HNQT ngày càng sâu rộng
Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa được hình thành, vận động và phát triển một cách tự giác, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và sự quản lý của Nhà nước. Đảng lãnh đạo văn hóa thông qua việc Đảng cộng sản định ra đường lối, chủ trương, phương hướng phát triển nền văn hóa Việt Nam, còn Nhà nước quản lý nền văn hóa tức là Nhà nước là người tổ chức, thực hiện xây dựng phát triển văn hóa mới.
Để phát triển văn hóa bền vững trong điều kiện HNQT ngày càng sâu rộng, cần phải biết tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam; đồng thời phải biết chống lại những văn hóa lai căng, độc hại từ bên ngoài xâm nhập vào Việt Nam, xóa bỏ những hủ tục lạc hậu, lỗi thời, nhằm làm giầu thêm giá trị văn hóa dân tộc và thế giới. Để đạt được điều đó, đòi hỏi phải có một đội ngũ công chức QLVH đủ về số lượng, mạnh về chất lượng.
Do đó, nâng cao chất lượng công chức QLVH phải xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi phát triển văn hóa bền vững trong điều kiện HNQT ngày càng sâu rộng trong cả hiện tại và tương lai.
4.2.1.2. Nâng cao chất lượng công chức quản lý văn hóa phải nâng cao toàn diện cả về thể lực, trí lực và tâm lực
Như đã phân tích ở Chương 2 chất lượng công chức nói chung và chất lượng công chức QLVH nói riêng được kết cấu thành bởi ba yếu tố cơ bản: thể lực, trí lực và tâm lực. Do đó, nâng cao chất lượng công chức QLVH phải nâng cao cả ba yếu tố cấu thành của nó là cả thể lực, cả trí lực và cả tâm lực. Đây chính là thể hiện sự vận dụng sáng tạo quan điểm toàn diện của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nếu chỉ nâng cao một hoặc hai bộ phận cấu thành thôi, bỏ xót một bộ phận nào trong ba bộ phận cấu thành đó đều rơi vào quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, chủ quan duy ý chí.
Lao động của công chức QLVH là QLNN trong lĩnh vực văn hóa. Lao động này có đặc điểm là lao động phức tạp, do đó cần thiết phải nâng cao trình độ cả về thể lực, trí lực và tâm lực. Trong đó thể lực là rất cần thiết, vì không có thể lực thì con người nói chung và người công chức QLVH nói riêng không thể thực hiện được các