Những Quan Điểm Cơ Bản Định Hướng Cho Việc Đề Xuất Các Biện


học viện, nhà trường thuộc hệ thống đào tạo của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể, nhưng lần tái bản mới đây nhất (5/2007) tài liệu vẫn bổ xung phần lý luận chung nhằm cung cấp và làm rõ thêm cơ sở lý luận về vấn đề này. Bên cạnh đó, một nội dung không thể thiếu là đi sâu xác định rõ những vấn đề nghiệp vụ công tác tư tưởng của đảng bộ, chi bộ cơ sở; một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Đây là dịp giúp cho người học nhận thức rõ về bối cảnh thế giới, nhiệm vụ công tác tư tưởng của tổ chức cơ sở đảng gắn với bối cảnh, nhiệm vụ của đất nước, qua đó để có những giải pháp thích hợp tổ chức lực lượng và thực hiện các loại hình của công tác tư tưởng cho phù hợp.

Công tác tổ chức của chi bộ, đảng bộ cơ sở được trình bày trong Bài 4 cũng nhằm tháo gỡ một vướng mắc hiện nay của tổ chức cơ sở đảng trong việc lãnh đạo công tác tổ chức ở địa phương, cơ sở. Các học viên được tiếp cận từ những quan điểm chung, thành tựu, khó khăn và những hạn chế của công tác tổ chức, những trọng tâm của công tác tổ chức trong tình hình hiện nay như xây dựng, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng. Từ đó, vận dụng vào thực tiễn, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung, dân chủ; công tác đảng viên; công tác cán bộ và công tác chính trị nội bộ.

Tương tự như vậy, nội dung của Bài 5 cung cấp cho học viên những vấn đề về lý luận chung và nghiệp vụ về công tác kiểm tra, giám sát, khen thưởng và kỷ luật ở chi bộ, đảng bộ cơ sở; giúp cho người học thấy rõ mối quan hệ giữa chất lượng của các tổ chức Đảng với hiệu quả của công tác kiểm tra. Đây là một hoạt động không thể thiếu và ngày càng có vị trí quan trọng trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng từ Trung ương đến địa phương. Cùng với công tác kiểm tra, vấn đề khen thưởng và kỷ luật Đảng là hoạt động thường xuyên của tổ chức Đảng. Điều quan trọng của công tác này không phải chỉ là nâng cao nhận thức, mà cần thiết phải xử lý nghiệp vụ những vấn đề, những tình huống cụ thể. Khen thưởng và kỷ luật Đảng khi


được thực hiện nghiêm minh sẽ góp phần quan trọng vào việc giữ nghiêm nề nếp, nguyên tắc và sức chiến đấu của Đảng. Bởi vậy khi truyền đạt những nội dung này các giảng viên đều chú trọng đến liên hệ thực tiễn, thảo luận và sử lý các tình huống cụ thể, bổ xung kinh nghiệm cho người học.

Công tác vận động nhân dân của chi bộ, đảng bộ cơ sở được trình bày trong nội dung của Bài 6. Đây cũng là một nhiệm vụ quan trọng của tổ chức cơ sở đảng. Thực tiễn đã khẳng định, nơi nào làm tốt công tác vận động nhân dân thì quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị cũng như sử lý các vấn đề nẩy sinh trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội, an ninh quốc phòng hay dân tộc, tôn giáo đều thuận lợi. Nội dung của bài giảng đã đề cập đến vị trí, vai trò của công tác vận động nhân dân trong điều kiện hiện nay; quan điểm chỉ đạo và nhiệm vụ của công tác dân vận trong tình hình mới và nội dung, phương thức công tác vận động nhân dân của chi bộ, đảng bộ cơ sở.

Đó là các chương trình giáo dục LLCT cơ bản mà TTBDCT cấp huyện phải quản lý thực hiện. Nội dung của các chương trình đó cho thấy vai trò to lớn của TTBDCT cấp huyện trong việc nâng cao trình độ nghiệp vụ và LLCT cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở.

Ngoài các chương trình nêu trên, những năm qua, nhiều chương trình mới được soạn thảo, bổ sung và triển khai thực hiện. Ví dụ như Chương trình Sơ cấp chính trị gồm 5 học phần: Triết học Mác - Lênin, Kinh tế chính trị Mác - Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Chương trình này được tổ chức học tập trong 2 tháng với trên 300 tiết bao gồm lên lớp, giải đáp, thảo luận, kiểm tra, thi. Điều đáng nói ở đây là Chương trình Sơ cấp chính trị được triển khai thực hiện ở các Trung tâm đã góp phần quan trọng vào việc chuẩn hoá trình độ LLCT, tạo ra một kênh chính quy, liên thông trong việc tạo nguồn cán bộ cơ sở từ sơ cấp, trung cấp đến cao cấp sau này.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 87 trang tài liệu này.

Một số chương trình khác như: 5 bài dành cho cán bộ tuyên giáo ở cơ sở; 4 bài cho đối tượng cán bộ thực hiện về công tác dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta; công tác tôn giáo và chính sách tôn giáo,… Bên cạnh đó, trong thời gian gần đây, chương trình giáo dục về đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên; chương trình về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã được ban hành và đưa vào sử dụng, góp phần tạo ra những chuyển biến tích cực trong nhận thức cho cán bộ, đảng viên về những vấn đề bức xúc của xã hội hiện nay. Các chương trình này đều được TTBDCT cấp huyện trong tỉnh triển khai thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả, theo đúng hướng dẫn của Ban Tuyên giáo Trung ương.

2.3- Đánh giá tổng quát:

Biện pháp quản lý thực hiện chương trình giáo dục lý luận chính trị tại các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện tỉnh Thái Nguyên - 6

Thông qua hoạt động quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT tại TTBDCT cấp huyện trong tỉnh, các học viên đều tiếp thu được những kiến thức cơ bản nhất về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, hiểu và thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, nâng cao trình độ lý luận, bản lĩnh chính trị và trình độ chuyên môn nghiệp vụ trong công tác, nhất là việc vận dụng kiến thức được bồi dưỡng vào thực thi các nhiệm vụ cụ thể tại cơ sở.

Các chương trình giáo dục LLCT đã giúp cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân xây dựng một tư duy mới phù hợp với thời kỳ cách mạng mới một cách có hệ thống và cụ thể để vận dụng vào thực tiễn cuộc sống. Công tác giáo dục LLCT đã góp phần tích cực và có hiệu quả vào thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đối mới, kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng và nâng cao chất lượng đảng viên.

Qua khảo sát ở một số địa phương, hầu hết cấp uỷ các cơ sở đều nhận xét: cán bộ, đảng viên sau khi được học tập, bồi dưỡng đều phát huy tác dụng tích cực, nâng cao nhận thức chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo; vững vàng, tự tin, chủ động hơn khi giải quyết các công việc tại cơ sở, được


nhân dân tín nhiệm; góp phần tích cực thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của địa phương, củng cố, xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể ngày càng vững mạnh.

Số lượt học viên được bồi dưỡng tại các Trung tâm hàng năm đều tăng. Thực tế cho thấy các học viên được bồi dưỡng theo hướng dẫn và tài liệu của Ban Tuyên giáo Trung ương biên soạn nhìn chung là phù hợp và có hiệu quả cao.

Từ năm 2000 đến năm 2007, trên địa bàn tỉnh đã mở được 2.159 lớp với

201.594 lượt học viên. Trong đó có:

- 358 lớp bồi dưỡng đối tượng kết nạp Đảng với 33.143 học viên;

- 235 lớp bồi dưỡng đảng viên mới với 20.027 học viên;

- 203 lớp bồi dưỡng bí thư chi bộ, cấp uỷ viên cơ sở với 16.218 lượt học viên;

- 615 lớp bồi dưỡng công tác đoàn thể với 58.810 lượt học viên;

- 41 lớp sơ cấp lý luận chính trị với 2.929 học viên;

- 707 lớp bồi dưỡng các công tác khác với 70.467 lượt học viên (bao gồm các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ công tác tuyên giáo ở cơ sở, Trưởng thôn bản, giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ đảng viên, giáo dục chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, chuyên đề về Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế, chuyên đề về dân tộc, tôn giáo,... và các lớp bồi dưỡng khác theo yêu cầu của cấp uỷ địa phương) (xem Phụ lục số 1).

Bên cạnh những thành tựu nêu trên, hiện nay quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT tại các Trung tâm chủ yếu theo cách tiếp cận nội dung, căn cứ vào khối lượng công việc, thời gian hoàn thành để đánh giá kết quả thực hiện, ít quan tâm đến đánh giá của xã hội về sản phẩm (học viên). Việc khảo sát đối tượng học viên các Trung tâm mới tập trung chủ yếu vào khảo sát trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; chưa quan tâm đúng mức tới việc học viên nắm bắt và vận dụng lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn công tác như thế nào? Những vấn đề bất cập giữa lý luận và thực tiễn ở địa phương hiện nay là gì?


Giảng viên thực hiện chương trình theo một khuôn mẫu đã định sẵn, thường là một chiều, mang tính áp đặt, ít có cơ hội để bổ sung tài liệu hoặc thay đổi hình thức dạy học. Trong quá trình học tập, học viên thường thụ động, khó có thể kích thích được sự năng động, sáng tạo của họ. Quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT tại các TTBDCT sau hơn 12 năm hoạt động đã bộc lộ những tồn tại, hạn chế. Cụ thể là:

* Về nội dung chương trình:

Nhìn tổng thể các tài liệu, chương trình đã được thực hiện trong những năm qua, có thể thấy nổi lên những hạn chế, đó là: Sự trùng lắp, chồng chéo trong một số tài liệu, chương trình và việc hướng dẫn thực hiện chưa thống nhất; có chương trình còn lạc hậu so với thực tiễn. Một số tài liệu viết còn chung chung, lý luận dài dòng, chưa phù hợp với đối tượng, ít minh hoạ thực tiễn. Phần cập nhật quan điểm, nghị quyết mới của Đảng gắn với các bài trong một số chương trình còn chậm, chất lượng chưa cao. Bên cạnh đó, hiện nay có một thực tế là nhiều cơ quan, ban ngành xây dựng chương trình để triển khai thực hiện ở Trung tâm, điều này dẫn tới thiếu đồng bộ, đặc biệt là các chương trình thuộc khối quản lý nhà nước; việc bổ sung chương trình mới còn chưa kịp thời, không theo kịp với tình hình thực tiễn ở cơ sở.

Một số chương trình mới được viết, bổ xung thêm như: Giáo dục đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên; Phương pháp giảng dạy LLCT; Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế,... cần căn cứ vào nhu cầu và đặc điểm của đối tượng để viết chương trình, tránh áp đặt chung chung dẫn tới không hiệu quả. Nên xây dựng khung chương trình chuẩn cho thành phố, thị xã; chương trình cho khu vực nông nghiệp, nông thôn và chương trình cho cán bộ, đảng viên khu vực dân tộc, miền núi. Ngoài ra, cần sớm kiện toàn hệ thống chương trình có tính chất liên thông, có cơ sở pháp lý giữa sơ cấp, trung cấp và cao cấp (hoặc cử nhân chính trị), đảm bảo việc bồi dưỡng ở Trung tâm không bị trùng


lắp, là cơ sở có tính pháp lý để học viên tiếp tục học lên trung cấp và cao cấp chính trị.

* Về tổ chức bộ máy:

Sau hơn 12 năm vận hành, mô hình TTBDCT cấp huyện đã cho thấy cả tính hợp lý, tích cực cũng như hạn chế, tồn tại và những vấn đề đặt ra với mô hình này. TTBDCT là đơn vị sự nghiệp giáo dục, tương đương với phòng, ban trong hệ thống các đơn vị chức năng của huyện, có tài khoản và con dấu riêng, mỗi Trung tâm có biên chế không quá 5 người. Có thể thấy đây là một bước tiến lớn trong việc ra đời và khẳng định một loại hình cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ở địa phương. Trung tâm hiện nay kế thừa được nhiều mặt tích cực của hệ thống trường Đảng cấp huyện trước đây, đồng thời thực hiện được nhiều nhiệm vụ đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước, đặc biệt là yêu cầu của Quy định 54 về chế độ học tập LLCT trong Đảng.

Tuy nhiên, biên chế như vậy là quá ít so với khối lượng công việc được giao; chưa có quy chế hoạt động thống nhất trong toàn quốc. Đội ngũ cán bộ, giảng viên của các Trung tâm còn một số trình độ năng lực hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu công tác; một số bảo thủ trì trệ, ngại đổi mới... Hiện nay vẫn còn tồn tại một số bất cập như: Về tên gọi, còn nhiều ý kiến khác nhau cần được thảo luận cho thống nhất, chẳng hạn giữ nguyên tên cũ hay gọi là Trung tâm bồi dưỡng cán bộ hoặc trường bồi dưỡng cán bộ,... ; tiếp tục xác định rõ tiêu chuẩn, chức danh của từng loại cán bộ như Hướng dẫn liên Ban số 2098 của Ban Tổ chức và Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương.

* Về chế độ chính sách, phương tiện và phương pháp quản lý thực hiện: Còn nhiều bất cập.

Tuy được coi là một đơn vị sự nghiệp giáo dục, nhưng về chế độ chính sách chưa được hưởng như các đơn vị sự nghiệp giáo dục khác.

Việc cấp phát kinh phí cho các Trung tâm ở một số địa phương còn “nhỏ giọt”, bị “xé lẻ” làm cho việc quản lý thực hiện chương trình mất đi tính


chủ động, ảnh hưởng đến tiến độ đào tạo, bồi dưỡng. Mặt khác, Trung ương chưa có văn bản hướng dẫn về chế độ phụ cấp giảng dạy cho cán bộ cơ hữu của Trung tâm thống nhất trong cả nước (hoặc thống nhất theo khu vực) nên việc vận dụng ở mỗi địa phương khác nhau, chưa động viên được đội ngũ cán bộ giảng viên yên tâm công tác, nhất là những cán bộ được điều động từ ngành giáo dục đến công tác tại Trung tâm.

Về chế độ đối với người học, căn cứ vào Thông tư số 79/2005/TT-BTC ngày 15/9/2005 của Bộ Tài chính, tỉnh đã ra Quyết định số 980/2006/QĐ- UBND ngày 18/5/2006 ban hành chế độ bồi dưỡng và trợ cấp cho cán bộ, công chức nhà nước được cử đi đào tạo, chi phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức ở địa phương. Theo Quyết định này, mỗi học viên được cử đi học,ở nội trú tại Trung tâm; có khoảng cách từ trụ sở cơ quan, đơn vị đến Trung tâm từ 10 km trở lên đối với vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn theo Quyết định của Chính phủ; từ 20 km trở lên đối với các vùng còn lại phải ở nội trú được hỗ trợ tối đa không quá 15.000đ/người/ngày. Các vùng còn lại được hỗ trợ không quá 10.000đ/người/ngày. Nguồn kinh phí chi trả do các cơ sở đào tạo chi trả. Học viên ở ngoại trú có khoảng cách dưới 10 km đối với vùng núi cao, vùng đặc biệt khó khăn theo Quyết định của Chính phủ, dưới 20 km đối với các vùng còn lại được hỗ trợ bằng 50% định xuất hỗ trợ ở nội trú, nguồn kinh phí do cơ quan, đơn vị có học viên đi học chi trả.

Riêng các đối tượng là cán bộ không chuyên trách ở cấp xã, xóm và tổ dân phố, đại biểu hội đồng nhân dân các cấp không được hưởng lương từ ngân sách nhà nước được hỗ trợ một phần tiền ăn, ở, sinh hoạt. Kinh phí hỗ trợ do các cơ sở đào tạo chi trả.

Mức chi trả này so với điều kiện hiện nay là quá thấp, không còn phù hợp, đặc biệt là các học viên vùng sâu, vùng xa, điều kiện đi lại gặp nhiều khó khăn; phân cấp chi trả gây phức tạp cho khâu quản lý thực hiện.


Sau khi có Thông tư số 51/2008/TT-BTC ngày 16 tháng 6 năm 2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức Nhà nước, Tỉnh Thái Nguyên đã ra quyết định huỷ bỏ Quyết định số 980/2006/QĐ-UBND để triển khai thực hiện theo Thông tư này; mức chi cao hơn và phân cấp chi trả thuận lợi hơn. Tuy nhiên việc triển khai thực hiện còn nhiều lúng túng, chưa thống nhất giữa các Trung tâm trên địa bàn tỉnh vì nguồn kinh phí chi trả lại chưa đáp ứng yêu cầu theo văn bản hướng dẫn.

Các phương tiện kỹ thuật hiện đại phục vụ cho quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT tại các Trung tâm còn thiếu, chưa được quan tâm đầu tư đúng mức.

Việc tổ chức kiểm tra, đánh giá chất lượng một số chương trình chưa phù hợp, mang nặng tính hình thức. Công tác tổng kết thực tiễn còn yếu. Bên cạnh đó một số vấn đề trong Quy định 183, 184 về giảng dạy và học tập; về tổ chức và kiểm tra, thi tốt nghiệp, cấp giấy chứng nhận, bằng tốt nghiệp tại các Trung tâm chưa được rõ làm ảnh hưởng đến quá trình quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT tại các Trung tâm.

*

* *

Từ những cơ sở lý luận và thực trạng quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT trong hơn 12 năm qua tại TTBDCT cấp huyện trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, tác giả đã tiến hành nghiên cứu và đề xuất một số biện pháp nhằm đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả quản lý chương trình giáo dục LLCT tại TTBDCT cấp huyện tỉnh Thái Nguyên trong thời gian tới. Nội dung các biện pháp được thể hiện trong chương tiếp theo của Luận văn.


Chương 3


MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM ĐỔI MỚI, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ QUẢN LÝ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC

LLCT TẠI TTBDCT CẤP HUYỆN TỈNH THÁI NGUYÊN TRONG THỜI GIAN TỚI



pháp

3.1- Những quan điểm cơ bản định hướng cho việc đề xuất các biện


3.1.1- Bối cảnh, tình hình đất nước và trong tỉnh những năm tới liên

quan đến quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT tại các TTBDCT cấp huyện:

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã nêu rõ: "Trên thế giới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Kinh tế thế giới và khu vực tiếp tục phục hồi và phát triển nhưng vẫn tiềm ẩn những yếu tố bất trắc khó lường. Toàn cầu hóa kinh tế tạo ra cơ hội phát triển nhưng cũng chứa đựng những yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển... Những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, hoạt động khủng bố, những tranh chấp về biên giới, lãnh thổ, biển đảo và các tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp. Các mâu thuẫn lớn của thời đại vẫn rất gay gắt"[26, tr.73-74].

Như vậy, vấn đề lớn đầu tiên, đó là xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra trên thế giới, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của cả nước cũng như từng địa phương, doanh nghiệp, cơ sở. Đây là vấn đề bức xúc đang đặt ra cả về


kiến thức, tâm lý và triển khai thực hiện. Việc giáo dục cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở thông qua công tác quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT tại các TTBDCT là hết sức quan trọng, nó góp phần khắc phục sức ỳ, tư tưởng muốn quay trở lại thời kỳ bao cấp. Bên cạnh đó, việc hiểu đầy đủ bản chất của quá trình hội nhập, phát triển nền kinh tế tri thức là một đòi hỏi lớn hiện nay cả về nhận thức, quan điểm, lộ trình và bước đi.

Đối với các mâu thuẫn nội tại trên thế giới, giữa nước giàu và nước nghèo, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội,... yêu cầu cắt nghĩa, lý giải hiện tượng này không chỉ được đặt ra trong quá trình phát triển của đất nước mà còn là vấn đề lập trường, quan điểm cần được cung cấp thường xuyên cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở. Điều này góp phần củng cố niềm tin, nâng cao tính tích cực, chủ động trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng trong mỗi thời kỳ. TTBDCT là kênh quan trọng để cung cấp thông tin, kiến thức cơ bản thông qua hệ thống chương trình cho các đối tượng.

Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã tạo ra thời cơ, thách thức rất lớn với mỗi quốc gia trong quá trình phát triển. Cán bộ, đảng viên ở cơ sở nhận thức và thực hiện như thế nào trong bối cảnh thế giới hiện nay? Việc chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, cơ cấu kinh tế, thay đổi vật nuôi cây trồng, quy hoạch vùng, miền cùng như thay đổi thói quen, tập quán làm ăn để đảm bảo hiệu quả kinh tế là vấn đề lớn mà TTBDCT có thể đóng vai trò tích cực vào quá trình thay đổi nhận thức cho đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở thông qua việc quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT thường xuyên hoặc định kỳ.

Đất nước ta tuy "đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử"[26, tr.67] sau hơn 20 năm đổi mới, nhưng hiện nay và một số năm tiếp theo chúng ta vẫn cơ bản là nước nghèo và kém phát triển. Đây vẫn là đặc điểm lớn nhất, chi phối nhiều mặt trong quá trình phát triển của đất nước,


trong đó vấn đề con người, đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở có vai trò đặc biệt quan trọng.

Sự chống phá của các thế lực thù địch bên ngoài và các lực lượng cơ hội chính trị ở trong nước diễn ra ngày càng tinh vi, phức tạp và nguy hiểm. Chúng muốn phá hoại, chia rẽ, làm mất ổn định, tiến tới thực hiện những âm mưu thâm độc hơn là xóa bỏ chế độ chúng ta. Một số vụ việc xảy ra ở Tây Nguyên, Tây Nam Bộ và những hoạt động chống phá có sự cấu kết của các lực lượng cơ hội trong nước và thế lực bên ngoài gây ra nhiều vấn đề phức tạp, làm mất ổn định chính trị trong nước. Ở một số nơi, tình trạng khiếu kiện còn nhiều diễn biến bất thường kết hợp với những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống và tình trạng tham nhũng của một bộ phận cán bộ, đảng viên; sự phân hóa giàu nghèo; bộ máy quan liêu, sách nhiễu nhân dân ở một số địa phương chưa khắc phục hết cũng gây bức xúc trong nhân dân. Những vấn đề đặt ra này không chỉ đòi hỏi việc bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, cung cấp đầy đủ hơn về các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên ở cơ sở, mà còn góp phần giải quyết các tồn đọng này.

Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn cách mạng mới hết sức nặng nề. Bên cạnh những thuận lợi, chúng ta còn phải đương đầu với không ít khó khăn, thách thức. Chúng ta tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh thế giới và trong nước có nhiều biến động rất phức tạp.

Trên thế giới, cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai cấp đang diễn ra sâu sắc và quyết liệt. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển như vũ bão. Trong khi đó, những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra trong quá trình đổi mới đất nước chưa được tổng kết kịp thời hoặc chưa sáng tỏ, cho nên còn có những ý kiến khác nhau cả về vấn đề cụ thể cũng như trên một số lĩnh vực cơ bản. Mặt khác, các lực lượng thù địch và bọn phản động lưu vong tiếp


tục sử dụng kinh tế làm điều kiện ép ta thay đổi về chính trị, tìm cách móc nối, đưa các lực lượng chống đối và các loại tội phạm trong số người Việt ở nước ngoài vào nước ta, ráo riết triển khai các hoạt động tình báo, tìm cách móc nối với các đối tượng ở trong nước, nhất là một số người cơ hội chính trị, bất mãn trong nội bộ, lợi dụng chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo”, “chống tham nhũng, tiêu cực” để kích động chống đối, chia rẽ nội bộ, xuyên tạc, phủ định mục tiêu, lý tưởng, con đường của cách mạng Việt Nam, phủ định sự lãnh đạo của Đảng.

Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Tỉnh Thái Nguyên đã đạt được những thành tựu có ý nghĩa quan trọng, tạo tiền đề phát triển cho những năm tiếp theo. Tuy nhiên, bước vào thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ giai đoạn mới, Thái Nguyên còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như: nền kinh tế còn những mặt yếu kém; kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ; công nghệ, thiết bị lạc hậu; thu nhập bình quân đầu người thấp; một số vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết triệt để, trình độ năng lực một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới,...

Những khó khăn, thách thức đó tác động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế - xã hội, công tác xây dựng Đảng của tỉnh, trong đó có công tác giáo dục LLCT.

Nhằm tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng các cấp, một trong những giải pháp cơ bản đã được Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII (nhiệm kỳ 2006-2010) chỉ rõ: "Đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị đối với trường Chính trị tỉnh và các Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện trên cơ sở đổi mới phương pháp dạy và học, gắn lý luận với thực tiễn. Thực hiện chế độ học tập lý luận bắt buộc đối với các đối tượng cán bộ, đảng viên theo quy định của Trung ương"[24, tr.59].

Xem tất cả 87 trang.

Ngày đăng: 26/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí