Trong bối cảnh thế giới và trong nước hiện nay, khi đất nước ta đang thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới với hơn 20 năm liên tục, đã và đang đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử; vị thế của đất nước ta tiếp tục được nâng cao trên trường quốc tế; nhiều sinh hoạt chính trị lớn được tổ chức ở trong nước làm nức lòng đồng bào cả nước, củng cố lòng tin của mọi tầng lớp nhân dân vào sự nghiệp đổi mới; nhưng cũng phải phấn đấu vượt qua biết bao khó khăn, thử thách. Với điều kiện đó, những yếu tố chính trị tích cực và tiêu cực từ bên ngoài rất dễ tạo ra những tác động về mặt tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân trên địa bàn cấp huyện.
Quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT của các Trung tâm một mặt giúp cho cán bộ, đảng viên hiểu được các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng trên các lĩnh vực, từ đó tạo ra niềm tin, là cơ sở để xây dựng thành khối thống nhất về tư tưởng và hành động để thực hiện thắng lợi các mục tiêu của địa phương đặt ra trong từng thời kỳ. Bên cạnh đó, chính tác động của tư tưởng bên ngoài cũng ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT của các Trung tâm, tác động tới tư tưởng, tâm lý người học.
Thứ hai, tình hình kinh tế - xã hội trong nước và trên địa bàn tỉnh. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, ở địa phương nào kinh tế tăng trưởng nhanh, xã hội ổn định thì việc tổ chức học tập, bồi dưỡng của các Trung tâm cũng thuận lợi hơn rất nhiều. Kinh tế tăng trưởng nhanh không chỉ tác động về mặt tư tưởng mà còn trực tiếp tạo điều kiện về vật chất giúp cho Trung tâm thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao. Ngược lại, nếu nơi nào kinh tế gặp khó khăn, đời sống nhân dân thiếu thốn, tỷ lệ nghèo đói cao, xã hội không ổn định, nảy sinh nhiều vấn đề an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội hoặc những vấn đề phức tạp khác,… thì việc tổ chức quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT cũng sẽ kém hiệu quả.
Nằm sát Thủ đô Hà Nội, Thái Nguyên - Trung tâm của vùng Đông Bắc Tổ quốc là cửa ngõ giao lưu kinh tế, văn hoá giữa vùng trung du và miền núi phía Bắc với vùng đồng bằng Bắc bộ. Kể từ khi tái lập tỉnh (01/01/1997), Thái Nguyên có một thành phố, một thị xã và 7 huyện với tổng diện tích tự nhiên 3.546,55 km2; dân số hơn 1,13 triệu người[22, tr.17] gồm nhiều dân tộc anh em cùng chung sống, trong đó dân tộc thiểu số chiếm 24,76%. Toàn tỉnh có 125 xã, thị trấn miền núi, vùng cao, trong đó có 52 xã đặc biệt khó khăn và ATK.
Nhân dân các dân tộc Thái Nguyên có truyền thống đoàn kết, cần cù sáng tạo trong lao động, có tinh thần yêu nước, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng.
Trải qua nhiều thế hệ, đồng bào các dân tộc Thái Nguyên luôn đoàn kết xây dựng quê hương và đấu tranh anh dũng chống mọi kẻ thù xâm lược. Thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Thái Nguyên là một tỉnh nằm trong căn cứ địa cách mạng Việt Bắc. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp 9 năm (1947-1954), Thái Nguyên là Thủ đô kháng chiến của cả nước, nơi Bác Hồ cùng Trung ương Đảng, Chính phủ đặt đại bản doanh lãnh đạo kháng chiến.
Những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, công tác an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo; tình hình phát triển kinh tế xã hội có nhiều khởi sắc; đời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện và nâng lên rõ rệt.
- Kinh tế phát triển với tốc độ nhanh: Những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) năm sau cao hơn năm trước, bình quân hàng năm đạt 9,05%. Riêng năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 12,46%, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra và là năm có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất từ trước đến nay. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong tổng GDP của tỉnh. Tính đến hết năm 2007, cơ cấu kinh tế của tỉnh đạt tỷ trọng công nghiệp, xây dựng 39,3%; dịch vụ
Có thể bạn quan tâm!
- Biện pháp quản lý thực hiện chương trình giáo dục lý luận chính trị tại các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện tỉnh Thái Nguyên - 1
- Biện pháp quản lý thực hiện chương trình giáo dục lý luận chính trị tại các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện tỉnh Thái Nguyên - 2
- Đặc Điểm Của Công Tác Quản Lý Thực Hiện Chương Trình Giáo Dục Llct Tại Ttbdct Cấp Huyện
- Thực Trạng Quản Lý Thực Hiện Chương Trình Giáo Dục Llct Tại Các Trung Tâm:
- Những Quan Điểm Cơ Bản Định Hướng Cho Việc Đề Xuất Các Biện
- Những Quan Điểm Cơ Bản Định Hướng Cho Việc Đổi Mới, Nâng Cao Chất Lượng, Hiệu Quả Quản Lý Thực Hiện Chương Trình Giáo Dục Llct Tại Các Ttbdct:
Xem toàn bộ 87 trang tài liệu này.
36,3%; nông, lâm nghiệp 24,4% (năm 2000 tỷ trọng công nghiệp, xây dựng 30,37%; dịch vụ 35,94%; nông lâm nghiệp 33,69%).
- Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tiếp tục được đầu tư, phát triển: Đến nay đã có nhiều chương trình, đề án, công trình trọng điểm hoàn thành, đưa vào sử dụng và phát huy hiệu quả kinh tế xã hội, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng trưởng kinh tế. Hệ thống giao thông tiếp tục được đầu tư phát triển. Các trục đường chính được đầu tư mở rộng, hình thành mạng lưới giao thông nối liền giữa các vùng, thuận lợi cho đi lại, lưu thông hàng hoá giữa các địa phương trong tỉnh và với các tỉnh bạn. Hệ thống lưới điện được tiếp tục nâng cấp, cải tạo và mở rộng, đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
- Văn hoá, xã hội được quan tâm đầu tư, từng bước phù hợp với phát triển kinh tế: Thông qua thực hiện các chương trình, đề án đã huy động được nhiều nguồn lực cho đầu tư phát triển. Thực hiện tốt chương trình giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập và đời sống nhân dân, nhất là đối với các hộ nghèo, các hộ thuộc diện chính sách. Đến nay số hộ nghèo đã giảm, thu nhập và đời sống ở các vùng nông thôn được cải thiện. Tính đến cuối năm 2007, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 21,35% (năm 2005 còn 26,85%) theo tiêu chí mới.
Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm. Mạng lưới y tế từ tỉnh đến cơ sở tiếp tục được đầu tư nâng cấp, cơ bản đáp ứng được nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân.
Các hoạt động văn hóa, thông tin, báo chí đã bám sát nhiệm vụ chính trị, có nhiều đổi mới về nội dung, hình thức. Đến nay, hầu hết các địa bàn trong tỉnh đã được phủ sóng phát thanh, truyền hình. Cuộc vận động "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư" và phong trào "Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa" tiếp tục được đẩy mạnh và nâng cao
chất lượng, đã có tác dụng trong việc xây dựng đời sống văn hóa, tinh thần của các cộng đồng dân cư.
Giáo dục đào tạo phát triển cả về loại hình và quy mô, từng bước nâng dần chất lượng. Quy mô giáo dục phổ thông, mạng lưới trường lớp tiếp tục phát triển đáp ứng được nhu cầu học tập của con em nhân dân các dân tộc trong tỉnh. Củng cố vững chắc kết quả phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập trung học cơ sở và tiến hành từng bước phổ cập giáo dục bậc trung học. Cơ sở vật chất, trường lớp được quan tâm đầu tư; thực hiện có hiệu quả chương trình kiên cố hóa trường lớp và đề án xóa phòng học tạm. Hệ thống các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, trung tâm giáo dục thường xuyên đã chú trọng nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập, góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Hoạt động khoa học công nghệ có chuyển biến tích cực, nhất là trong việc đẩy mạnh ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào đời sống, đổi mới thiết bị, công nghệ trong các doanh nghiệp, từng bước nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm.
- Quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững: Công tác giáo dục quốc phòng toàn dân được duy trì thường xuyên, đạt kết quả thiết thực. Thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân tiếp tục được củng cố, tăng cường. Thường xuyên nắm bắt tình hình, giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân; tăng cường công tác kiểm soát, mở các đợt cao điểm trấn áp và triệt phá ổ, nhóm tội phạm, góp phần hạn chế các tệ nạn xã hội và tai nạn giao thông.
- Công tác xây dựng Đảng, Chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể có tiến bộ mới. Những năm qua, toàn Đảng bộ đã tập trung làm tốt công tác xây dựng Đảng, tạo ra những bước chuyển biến rõ rệt trên cả 3 mặt: chính
trị, tư tưởng và tổ chức. Đã có nhiều đổi mới trong việc nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Tổ chức quán triệt đầy đủ và nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương, triển khai tốt cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong toàn Đảng bộ, góp phần nâng cao nhận thức, tạo được sự nhất trí trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân và có tác dụng giáo dục, rèn luyện cho cán bộ, đảng viên.
Các cấp ủy đảng đã chú trọng củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng gắn với xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở; chú trọng xây dựng, kiện toàn tổ chức cơ sở đảng ở khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Tuy nhiên, Thái Nguyên là tỉnh miền núi trung du nên địa hình khá phức tạp, đi lại không thuận lợi; đời sống kinh tế nhiều nơi còn gặp khó khăn. Kinh tế của tỉnh có những bước chuyển biến tích cực nhưng chưa thật vững chắc, một số chỉ tiêu đạt còn thấp; chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi chậm; tỷ lệ hộ nghèo còn cao, tập trung chủ yếu ở đồng bào dân tộc thiểu số miền núi, vùng sâu, vùng xa; thu nhập bình quân đầu người còn thấp so với bình quân chung của cả nước (năm 2007 đạt 8,6 triệu đồng/ người). Một số vấn đề bức xúc như tệ nạn xã hội, tai nạn giao thông,...; hoạt động của các loại tội phạm còn diễn biến phức tạp, nhất là tội phạm về ma tuý chưa được ngăn chặn và đẩy lùi. Cải cách hành chính còn chậm và chưa đồng bộ, chưa đáp ứng được yêu cầu.
Thứ ba, sự quan tâm của cấp uỷ các cấp, các cơ quan, ban, ngành từ Trung ương đến địa phương trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đến công tác quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT ở địa phương, cơ sở. Vấn đề này tuy là nhận thức chủ quan của các cấp, các ngành, nhưng đối với TTBDCT thì đây lại là yếu tố khách quan, ngoài khả năng giải quyết của Trung tâm. Một khi các cấp uỷ đảng, ban ngành quan tâm thì từ việc lên kế
hoạch, cử người đi học cho đến thực hiện chế độ, chính sách, chương trình đào tạo, bồi dưỡng cũng được tiến hành thuận lợi hơn.
Hiện nay, nhờ sự quan tâm của các cơ quan chức năng, hệ thống chương trình thực hiện tại các Trung tâm đa dạng, phong phú. Các chương trình được sửa đổi, bổ xung và ngày càng hoàn thiện hơn, cặp nhật kịp thời những quan điểm, thông tin mới nhất về tình hình trong nước và thế giới trên các lĩnh vực. Nhờ đó thu hút người học quan tâm nhiều hơn tới việc nâng cao trình độ LLCT, hiểu biết về thời sự, chính sách. Bên cạnh đó, việc giải quyết dứt điểm về phân cấp chương trình, quy định rõ đối tượng theo học từng loại chương trình để tránh trùng lặp; quy định về văn bằng chứng chỉ cũng có tác động, ảnh hưởng rõ rệt đối với việc lựa chọn đối tượng học tại các Trung tâm. Theo văn bản hướng dẫn về văn bằng, chứng chỉ của Ban Tuyên giáo Trung ương, việc phân loại trình độ LLCT của cán bộ, đảng viên ở cơ sở bước đầu đi vào nề nếp; các loại trình độ sơ cấp, trung cấp và cao cấp cũng được xác định rõ hơn căn cứ theo văn bằng chuyên môn đào tạo, trường lớp đào tạo. Trên cơ sở đó, các cơ quan, đơn vị và địa phương cử người đi học cũng phù hợp hơn, tránh được sự trùng lắp, chồng chéo. Người học trình độ sơ cấp rồi mới được cử theo học trung cấp, rồi cao cấp nếu được quy hoạch. Đồng thời, các chương trình bồi dưỡng kết nạp Đảng, đảng viên mới cũng đảm bảo yêu cầu bắt buộc đối với từng đối tượng, đảng viên mới phải học qua
chương trình này mới được chuyển đảng chính thức…
Do nhận thức rõ vị trí, vai trò của công tác tư tưởng lý luận trong tình hình mới, những năm gần đây Đảng bộ tỉnh luôn quan tâm đến công tác tuyên truyền giáo dục, đặc biệt là công tác giáo dục LLCT cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở. Cấp uỷ các cấp luôn quan tâm chỉ đạo các đơn vị, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cán bộ, đảng viên được học tập LLCT, đưa việc học tập LLCT trở thành quyền lợi và trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên. Sự phối kết hợp
giữa các cơ quan, ban, ngành có liên quan từ tỉnh đến cơ sở trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đến công tác quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT ở địa phương, cơ sở được quan tâm thường xuyên.
Thứ tư, trình độ dân trí ở các vùng miền, địa phương cũng phản ảnh rõ phạm vi, mức độ và hiệu quả hoạt động của các TTBDCT. Thực tế qua hơn 10 năm thực hiện Quyết định 100-QĐ/TW đến nay cho thấy các địa phương, các thành phố thị xã, nơi có trình độ dân trí cao hơn, tập trung các cơ quan, trường học, khu dân cư có mặt bằng dân trí cao thì ở đó vị trí, vai trò và hoạt động của các TTBDCT cũng đa dạng, phong phú và hiệu quả hơn. Dân trí cao cũng là nguyên nhân sâu xa thể hiện nhận thức chính trị của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Dân trí cao cũng đặt ra nhu cầu về đời sống tinh thần cao hơn. Do đó, hoạt động quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT của các Trung tâm cũng có môi trường thuận lợi rõ rệt.
Trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, trình độ dân trí và mật độ dân cư phân bố không đồng đều. Những năm gần đây, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo tuy có tăng lên nhưng vẫn ở mức độ thấp (năm 2004 là 19,27%, năm 2007 là 27,63% [22, tr.24]. Mật độ dân cư toàn tỉnh năm 2007 là 321 người/Km2; trong đó tập trung ở Thành phố Thái Nguyên là chủ yếu (1.378 người/Km2), ở Huyện Định Hoá là 174 người/Km2, còn ở Huyện Võ Nhai chỉ có 76 người/Km2[22, tr.17]. Các dân tộc thiểu số sống xen kẽ trong từng bản, làng; tập trung đông ở các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, địa hình phức tạp, đi lại không thuận lợi; đời sống kinh tế nhiều nơi còn gặp khó khăn. Môi trường đó ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT tại các Trung tâm.
2.1.2- Những yếu tố chủ quan:
* Về cơ sở vật chất:
Thực hiện Quyết định 100-QĐ/TW, dưới sự chỉ đạo của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và Ban Thường vụ cấp uỷ cấp huyện, các TTBDCT cấp huyện trong tỉnh lần lượt ra đời. Khi mới thành lập các TTBDCT chủ yếu tiếp quản các cơ sở của trường Đảng cũ và một số cơ quan của Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân huyện... Các cơ sở này chủ yếu là nhà cấp 4 đã xuống cấp nghiêm trọng, có Trung tâm chỉ có một gian nhà cấp 4 cũ làm văn phòng làm việc. Cơ sở vật chất, kỹ thuật và các trang thiết bị phục vụ cho giảng dạy và học tập còn nghèo nàn và lạc hậu. Các trang thiết bị tối thiểu cho người dạy và người học chưa đáp ứng. Các Trung tâm chưa đủ phòng học; tủ sách, thư viện còn quá nghèo nàn; đầu tư kinh phí cho Trung tâm còn rất hạn chế gây nhiều khó khăn cho quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT.
Được sự quan tâm chỉ đạo và tạo điều kiện của cấp uỷ, chính quyền các cấp, đến nay cơ sở vật chất và phương tiện phục vụ hoạt động của các TTBDCT đã được tăng cường. 9/9 TTBDCT đều có nhà làm việc. Một số Trung tâm đã được đầu tư xây dựng cơ sở vật chất mới hoặc tu sửa, nâng cấp. Hầu hết các Trung tâm đã có hội trường để phục vụ cho việc mở lớp; một số Trung tâm đã có nhà nghỉ, nhà ăn cho học viên ở xa. Ngoài ra, các Trung tâm còn được trang bị thêm một số phương tiện kỹ thuật hiện đại phục vụ cho công tác như máy vi tính, máy chiếu, máy phôtôcopy, tăng âm loa đài,... (xem Phụ lục số 3).
Tuy nhiên, điều kiện kinh phí hỗ trợ cho hoạt động của các Trung tâm còn rất hạn hẹp; các phương tiện nghe nhìn hiện đại, các tài liệu, sách tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập của giảng viên và học viên còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu. Các chế độ, chính sách đối với người học và người dạy chưa phù hợp với tính chất, đặc điểm của một đơn vị sự nghiệp làm công tác giáo dục nên chưa khuyến khích được cán bộ, giảng viên say sưa, gắn bó với công việc.
* Về đối tượng học viên:
Do đặc thù của công tác quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT tại TTBDCT cấp huyện, Thái Nguyên lại là tỉnh miền núi trung du, có nhiều dân tộc chung sống, trình độ dân trí không đồng đều nên đối tượng học viên lại càng đa dạng, khả năng tư duy và nhận thức của mỗi học viên là rất khác nhau. Thậm chí có học viên đi học nhưng điều kiện gia đình quá khó khăn, phải lo bươn trải với cuộc sống, mưu sinh nên ảnh hưởng không nhỏ đến ý thức và điều kiện tham gia học tập, nghiên cứu.
Một số cán bộ dân tộc ít người, chưa nói sõi tiếng kinh, chương trình dành riêng cho họ chưa kịp biên soạn nên việc thực hiện chương trình giáo dục LLCT đối với đối tượng này còn gặp nhiều hạn chế.
* Về đội ngũ giảng viên:
Đến nay hầu hết các TTBDCT đã kiện toàn được đội ngũ giảng viên kiêm chức (trung bình mỗi trung tâm có 10 đến 15 giảng viên kiêm chức) là trưởng, phó các ban, ngành, đoàn thể, nhiều đồng chí là lãnh đạo chủ chốt cấp huyện. Các giảng viên kiêm chức đều nhiệt tình và có trách nhiệm, có kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn, coi trọng lồng ghép giữa lý luận với tình hình thực tế của địa phương trong các bài giảng, làm cho các bài giảng thêm sinh động, giúp các học viên tiếp thu dễ dàng hơn.
Song đại đa số các giảng viên kiêm chức chưa qua các lớp tập huấn nghiệp vụ sư phạm; do bận nhiều công tác, ít dành thời gian nghiên cứu sâu để chuẩn bị bài giảng nên ảnh hưởng đến chất lượng bài giảng. Mặt khác, đại đa số giảng viên kiêm chức giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện nên các TTBDCT chưa tìm được phương thức quản lý giáo án bài giảng cho phù hợp, còn nhiều phân vân, e ngại. Việc dự giờ để trao đổi, tham gia góp ý về nội dung giáo án, kinh nghiệm giảng dạy, phương pháp truyền đạt,... trong đội ngũ giảng viên còn hạn chế.
Những nhân tố khách quan và yếu tố chủ quan nêu trên đã tác động không nhỏ đến tâm trạng tư tưởng của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân nói chung, đặc biệt là tác động đến hoạt động quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở trong giai đoạn hiện nay.
2.2- Thực trạng quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT tại các TTBDCT
2.2.1- Vấn đề nhận thức, triển khai quản lý thực hiện chương trình giáo dục LLCT tại các Trung tâm:
Hiện nay Đảng bộ có 751 tổ chức cơ sở đảng với 63.811 đảng viên (tính đến 31/12/2007) sinh hoạt tại 18 đảng bộ trực thuộc tỉnh. Các chương trình bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận, nhận thức cũng như chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên ở cơ sở được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động của 9 TTBDCT cấp huyện.
Thực hiện Quyết định 100-QĐ/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá VII) về tổ chức và hoạt động của TTBDCT cấp huyện, Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã ra quyết định và chỉ đạo các đảng bộ cấp huyện thành lập TTBDCT. Trên cơ sở chỉ đạo của Trung ương và tình hình thực tế của địa phương, Tỉnh đã ra Quyết định số 238-QĐ/TU ngày 25/3/2002 quy định cụ thể về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, lề lối làm việc của các TTBDCT trong tỉnh; mối quan hệ công tác của Trung tâm đối với cấp uỷ, chính quyền, ban Tổ chức, ban Tuyên giáo cấp huyện và một số cơ quan, ban ngành liên quan.
Quyết định nêu rõ: “Giám đốc (hoặc Phó Giám đốc thường trực) điều hành công việc theo chế độ thủ trưởng, chịu trách nhiệm trước cấp uỷ huyện, thành phố, thị xã việc thực hiện kế hoạch bồi dưỡng hàng năm và dài hạn cho cán bộ, đảng viên; chịu trách nhiệm mọi mặt hoạt động của Trung tâm theo chức năng nhiệm vụ của Trung tâm. Thực hiện sự hướng dẫn, chỉ đạo về
chuyên môn, nghiệp vụ của Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ và Ban Tuyên giáo Huyện uỷ, của các cơ quan, ban ngành liên quan.”[50, tr.2]
Về cơ sở vật chất, TTBDCT cấp huyện có trụ sở làm việc, thư viện (phòng đọc), hội trường, lớp học, phòng nghỉ, phòng ăn tập thể phục vụ giảng viên, học viên ở xa; được trang bị các phương tiện đảm bảo cho hoạt động của Trung tâm có hiệu quả. Trung tâm được trang bị tủ sách đáp ứng nhu cầu về tài liệu, giáo trình, sách tham khảo phục vụ cho công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu của giảng viên, học viên.
Ban Thường vụ Tỉnh uỷ đã giao cho:
- Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ hướng dẫn, kiểm tra, chỉ đạo việc thực hiện nội dung, chương trình bồi dưỡng LLCT và hoạt động của các Trung tâm; tham gia thẩm định kế hoạch tổ chức các lớp bồi dưỡng hàng năm của các Trung tâm.
- Ban Tổ chức Tỉnh uỷ có trách nhiệm chính trong việc chỉ đạo, hướng dẫn việc xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ, đảng viên tại các TTBDCT cấp huyện, tổng hợp kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng của các Trung tâm, chủ trì trao đổi với các cơ quan liên quan như: Ban Tuyên giáo, Ban Tổ chức Chính quyền, Sở kế hoạch - Đầu tư, Sở Tài chính và báo cáo với Thường trực Tỉnh uỷ phê duyệt kế hoạch chung.
- Sở kế hoạch - Đầu tư, Sở Tài chính, Ban Tổ chức chính quyền và các sở, ban, ngành, đoàn thể có liên quan theo chức năng chủ động hướng dẫn, kiểm tra, tạo điều kiện cho Trung tâm thực hiện nhiệm vụ và hoạt động có hiệu quả.
- Trường Chính trị tỉnh phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ tổ chức bồi dưỡng lý luận, nghiệp vụ cho đội ngũ giảng viên và cán bộ của Trung tâm.
Trên cơ sở Hướng dẫn số 09-HD/TTVH ngày 17 tháng 3 năm 2004 của Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương, Ban Tuyên giáo và Ban Tổ chức Tỉnh uỷ đã ra Hướng dẫn liên ban số 03-HDLB/TG-TC hướng dẫn cơ sở tiếp tục thực hiện Quy định số 54-QĐ/TW ngày 12 tháng 9 năm 1999 của Bộ Chính trị về “Chế độ học tập lý luận chính trị trong Đảng”.
Theo nhiệm vụ chức năng được phân công, Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, các ban ngành chức năng liên quan đã triển khai hàng loạt các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn TTBDCT cấp huyện hoạt động.
Thực hiện Quyết định 100-QĐ/TW (biên chế của các Trung tâm không quá 5 người), hiện nay tại Thái Nguyên có 7/9 Trung tâm đã có đủ 5 biên chế, 2/7 Trung tâm có 4 biên chế. Căn cứ vào nhu cầu công việc, một số Trung tâm đã chủ động hợp đồng thêm cán bộ để làm việc. Giám đốc Trung tâm không còn phải kiêm nhiệm như thời gian trước đây. Đa số các Trung tâm có từ một đến hai Phó Giám đốc (xem Phụ lục số 2).
Đội ngũ cán bộ đang công tác tại các Trung tâm đều nhiệt tình, gắn bó với công việc, chủ động sáng tạo trong triển khai thực hiện chương trình giáo dục LLCT. Trình độ chuyên môn và trình độ LLCT của cán bộ ở các Trung tâm những năm gần đây được nâng lên rõ rệt. Hiện nay, 100% đội ngũ cán bộ lãnh đạo của các Trung tâm có trình độ đại học chuyên ngành và cử nhân (hoặc cao cấp) chính trị; thường xuyên được tham gia các lớp tập huấn nghiệp vụ và sinh hoạt báo cáo viên của tỉnh để cặp nhật thông tin kịp thời.
Tuy nhiên, với số lượng biên chế được giao như hiện nay là quá ít, chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao trong tình hình mới. Do có sự thay đổi, luân phiên cán bộ, chuyển giao thế hệ sau mỗi nhiệm kỳ đại hội nên nhiều đồng chí chưa được qua đào tạo bài bản, còn hạn chế về năng lực chuyên môn, phương pháp sư phạm và nghiệp vụ công tác quản lý giáo dục, chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Trong những năm trước đây, giảng viên giảng dạy chủ yếu bằng phương pháp thuyết trình, độc thoại, chưa sử dụng nhiều các phương pháp khác như: đối thoại, hỏi đáp, thảo luận nhóm, nghe nhìn, tham quan thực tế,… nên việc mở rộng tầm nhìn, gắn lý luận với thực tiễn, phát huy tính năng động sáng tạo của học viên còn hạn chế. Nguyên nhân là do phân phối thời gian học tập mỗi chương trình còn bất cập, trong khi lượng kiến thức lớn, số học viên trong