động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực phi nông nghiệp, trong đó phải kể đến mô hình của Fisher, Lewis, Keynes, và Harry T.Oshima, Timmer. [Todaro M.P, 1982, Tr.436]
Đầu tiên là mô hình của Fisher, trong tác phẩm “Các quan hệ kinh tế của tiến bộ kỹ thuật”, nhà kinh tế học A.Fisher đã phân nền kinh tế thành 3 khu vực, gồm: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Ông cho rằng với tác động của khoa học kỹ thuật tất yếu sẽ kéo theo quá t nh chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Quá trình này sẽ thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng khối ngành công nghiệp và dịch vụ, đồng thời tỷ lệ lao động nông nghiệp sẽ giảm dần. Như vậy, theo Fisher, chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Khi đánh giá kết quả và tính bền vững của chuyển dịch lao động cần phải đánh giá tác động của nó đến tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. [Fisher A.G.B., 1935]
Bên cạnh đó mô hình tăng trưởng kinh tế của nhà kinh tế học W.Arthur Lewis trong tác phẩm “Lý thuyết về phát triển kinh tế” ông đưa ra “Mô hình hai khu vực” lập luận về mối quan hệ giữa khu vực nông nghiệp và khu vực công nghiệp trong quá trình tăng trưởng của nền kinh tế, đồng thời đưa ra lý thuyết về chuyển dịch lao động giữa hai khu vực trên cơ sở lý luận về tiền công lao động ở góc độ thu nhập. Quá trình chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp là do thu nhập ở khu vực công nghiệp cao hơn.
Mô hình Lewis giải thích tăng trưởng diễn ra do sự thay đổi cơ cấu kinh tế. Một nền kinh tế ban đầu chỉ bao gồm 1 khu vực nông nghiệp được chuyển thành nền kinh tế bao gồm 2 khu vực nông nghiệp và công nghiệp, trong đó khu vực công nghiệp đóng vai trò thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Mô hình Lewis cho thấy, tiền công lao động hay thu nhập là yếu tố rất quan trọng thúc đẩy chuyển dịch lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu
vực phi nông nghiệp. Khi đánh giá mức độ bền vững của quá trình chuyển dịch lao động, cần phải xem xét kết quả về thu nhập mà nó đem lại cho người lao động. Nếu chuyển dịch lao động không đi kèm với mức thu nhập đảm bảo đời sống cho người lao động thì hiệu quả xã hội của nó còn thấp và thiếu tính bền vững.
Bên cạnh đó, mô hình Lewis còn có những hạn chế khi cho rằng, tăng trưởng của khu vực công nghiệp dựa chủ yếu vào thu hút lao động từ nông thôn ra thành thị với mức tiền công giá rẻ, chỉ cần cao hơn so với thu nhập ở khu vực nông nghiệp. Điều này làm mô hình Lewis không giải thích được tại sao công nhân vẫn đình công ở các nhà máy trong khi tiền lương cao hơn so với khu vực nông nghiệp hay dòng dịch chuyển lao động từ khu vực nông thôn ra khu vực đô thị vẫn không ngừng tiếp diễn trong khi vẫn tồn tại thất nghiệp ở khu vực đô thị. 174, W. Arthur Lewis. Homewood, Ill.: Richard D. Irwin 1955, tr.453]
Một mô hình được nhắc tới khá nhiều trong phát triển kinh tế là của tác giả John Maynard Keynes trong công trình: “Lý thuyết tổng quát về thu nhập và việc làm” đưa ra mô hình việc làm trong nền kinh tế tăng cùng với GDP. Thất nghiệp phát sinh do tổng cầu của người tiêu dùng, doanh nghiệp và chính phủ đối với hàng hóa và dịch vụ tăng không đủ để GDP đạt mức tạo đủ việc làm. Có thể xem lập luận của Keynes là cần tăng tổng cầu hay GDP của khu vực phi nông nghiệp để tạo việc làm, thu hút lao động từ khu vực nông nghiệp. Nói cách khác, khi lựa chọn mô hình chuyển dịch lao động cần xem xét quan hệ giữa tăng trưởng GDP và gia tăng quy mô lao động trong nền kinh tế.
Có thể bạn quan tâm!
- Biến đổi cơ cấu lao động, việc làm của người dân khu vực thu hồi đất nông nghiệp Nghiên cứu tại xã Ngọc Mỹ, huyện Quốc Oai, Hà Nội và xã Thiện Kế, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc - 7
- Biến đổi cơ cấu lao động, việc làm của người dân khu vực thu hồi đất nông nghiệp Nghiên cứu tại xã Ngọc Mỹ, huyện Quốc Oai, Hà Nội và xã Thiện Kế, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc - 8
- Lý Thuyết Biến Đổi Xã Hội Và Quá Trình Chuyển Hóa Xã Hội Nông Thôn
- Biến đổi cơ cấu lao động, việc làm của người dân khu vực thu hồi đất nông nghiệp Nghiên cứu tại xã Ngọc Mỹ, huyện Quốc Oai, Hà Nội và xã Thiện Kế, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc - 11
- Khái Quát Về Chính Sách Đất Đai Và Thu Hối Đất Nông Nghiệp
- Thực Trạng Thu Hồi Đất Ở Xã Thiện Kế, Huyện Bình Xuyên, Vĩnh Phúc Và Xã Ngọc Mỹ, Huyện Quốc Oai, Hà Nội
Xem toàn bộ 220 trang tài liệu này.
Mô hình của Keynes có hạn chế là chưa đề cập cụ thể đến cơ cấu kinh tế, năng suất lao động là những yếu tố quyết định sức cạnh tranh của sản xuất cần được xem xét đi kèm với tăng trưởng và tạo việc làm. Thực tế ở nhiều
nước cho thấy, tăng trưởng GDP không đi kèm với tăng lao động mà ngược lại. John Maynard Keynes, 1994, Tr.41]
Đối với các nước ở châu Á với những điều kiện tự nhiên, thổ nhưỡng và con người khác với các nước phương tây do đó có những đặc điểm riêng trong quá trình phát triển xã hội. Mô hình của Harry T.Oshima nhà kinh tế học người Nhật Bản trong tác phẩm “Tăng trưởng kinh tế ở các nước châu Á gió mùa” đưa ra lý thuyết về tăng trưởng và tạo việc làm ở các nước châu Á với mô hình phát triển 2 khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp theo 3 giai đoạn.
- Giai đoạn đầu: tăng cường đầu tư mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp để tạo việc làm cho lao động thiếu việc làm ở khu vực nông nghiệp, cải thiện đời sống nông dân đồng thời để đáp ứng nhu cầu lương thực, thực phẩm cho dân số tăng lên và xuất khẩu nông sản để có ngoại tệ nhập khẩu máy móc cho phát triển công nghiệp. Giai đoạn này kết thúc khi sản xuất nông nghiệp hàng hóa phát triển trên quy mô lớn, đặt ra yêu cầu phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ, trước hết là các ngành công nghiệp, dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp và đời sống ở nông thôn như công nghiệp phân bón, công nghiệp chế biến, các dịch vụ ở nông thôn. Xét theo quá trình CNH
– HĐH phát triển một nền kinh tế, giai đoạn này có thể coi là giai đoạn nền kinh tế phát triển chủ yếu dựa vào nông nghiệp hay nền kinh tế nông nghiệp với tỷ trọng lao động nông nghiệp trong cơ cấu lao động còn khá cao.
- Giai đoạn hai: đẩy mạnh phát triển đồng thời cả 2 khu vực gồm phi nông nghiệp và nông nghiệp để tạo việc làm đầy đủ cho lao động ở cả hai khu vực. Theo Harry T.Oshima, để tạo việc làm đầy đủ cho lao động ở khu vực nông nghiệp và lao động ở khu vực phi nông nghiệp, nói cách khác để chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động trong giai đoạn này, cần phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ theo chiều rộng, sử dụng nhiều lao động để tạo đủ việc làm cho xã hội, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Giai đoạn này kết thúc khi tốc độ gia
tăng việc làm lớn hơn tốc độ tăng lao động, nền kinh tế bắt đầu có dấu hiệu thiếu lao động, tiền lương thực tế tăng nhanh. Đây có thể coi là giai đoạn “cất cánh” của nền kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp.
- Giai đoạn ba: phát triển cả hai khu vực nông nghiệp và phi nông nghiệp theo chiều sâu, mở rộng áp dụng KH&CN vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất lao động, qua đó giảm cầu lao động và tăng sức cạnh tranh của các ngành kinh tế. Khu vực công nghiệp tiếp tục phát triển theo hướng thay thế sản phẩm nhập khẩu và hướng vào xuất khẩu đi kèm với chuyển dịch cơ cấu các ngành công nghiệp theo hướng nâng cao hàm lượng công nghệ của sản phẩm. Khu vực dịch vụ phát triển mạnh cả về quy mô và chất lượng với hàm lượng GTGT của sản phẩm không ngừng được nâng lên. Giai đoạn này có thể coi là giai đoạn nền kinh tế phát triển cơ bản dựa vào công nghiệp và dịchvụ, giai đoạn nền kinh tế công nghiệp và tiếp tục phát triển trở thành nền kinh tế tri thức.
Một trong những mô hình cần quan tâm là quan điểm của Timmer về chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn. Tác giả Timmer chia quá trình phát triển thành 4 giai đoạn
Giai đoạn 1: Bắt đầu phát triển: Trong giai đoạn này nông nghiệp chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng sản phâm trong nước [Mosher, 1966]. Vì thế nguồn tích lỹ quốc gia phải rút chủ yếu từ nông nghiệp. Nguồn thu nhâp của nhà nước chủ yếu lấy từ thuế nông nghiệp một cách trực tiếp hoặc gián tiếp.
Giai đoạn 2: Nông nghiệp đóng vai trò chủ yếu vào tăng trưởng.
Một phần nguồn lợi thu được từ nông nghiệp được đầu tư trở lại cho nông nghiệp (chủ yếu cho nghiên cứu nông nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng). Sản lượng nông nghiệp tăng lên đã đóng góp lớn cho sự tăng trưởng kinh tế quốc gia.
Giai đoạn 3: Lao động nông nghiệp bắt đầu giảm
Trong giai đoạn này, giữa nông nghiệp và công nghiệp có một sự mất cân đối, nhất là trong năng suất lao động và trong mức thu nhập. Để khắc
phục nhược điểm này cần phải thu hẹp khoảng cách giữa nông nghiệp và công nghiệp bằng cách đưa nông nghiệp liên kết với toàn bộ nền kinh tế quốc dân thông qua phát triển thị trường lao động và tín dụng, liên kết kinh tế nông thôn với thành thị. Tuy nhiên càng liên kết với nền kinh tế chung thì kinh tế nông nghiệp càng mất tính ổn định và bị phụ thuộc hoàn toàn vào thị trường
Giai đoạn 4, Lao động nông nghiệp giảm xuống dưới 20% tổng số lao động
Ở giai đoạn này chi tiêu cho ăn uống trong ngân sách hộ gia đình thành phố giảm xuống còn 30%. Thu nhập của nông dân bị giảm bớt vì phải áp dụng kỹ thuật mới trong khi giá nông sản thấp. Trong điều kiện này, xã hội cần phải trợ cấp cho nông nghiệp để giữ chân một số nông dân ở lại nông thôn đảm bảo an toàn lương thực. Trong giai đoạn 4 cần có chính sách đối với nông nghiệp để đảm bảo khả năng thích ứng của nó và giải quyết những mâu thuẫn chủ yếu cho phát triển.
Theo tác giả Mellor (1995) tăng trưởng nông nghiệp chủ yếu do việc tăng diện tích, đa dạng hóa sản phẩm, và thay đổi kỹ thuật để tăng năng suất, đó là những nhân tố quyết định. Việc đa dạng hóa lao động do thị trường xuất khẩu và tăng thu nhập trên đầu người có tác động mạnh đến nông nghiệp. R. Barker,
C.P. Timmer, V.B.J. Tolentino,2003, Tr.164].
Vận dụng lý thuyết biến đổi xã hội trong luận án này nhằm giải thích sự biến cơ cấu lao động, việc làm của người dân ở khu vực thu hồi đất nông nghiệp là một dạng biến đổi có hoạch định, từ chủ trương biến đổi cơ cấu nền kinh tế của Chính phủ là tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ giảm tỷ trọng nông nghiệp do đó dẫn đến thu hồi đất nông nghiệp phục vụ cho công nghiệp, dịch vụ mà dẫn đến người nông dân phải chuyển đổi việc làm. Do tính chất của sự biến đổi liên quan chặt chẽ đến miếng cơm manh áo, sinh kế và những nhu cầu cấp báchcủa người dân nên mức độ biến đổi là rất nhanh, kết quả của sự biến đổi cho thấy hiển hiện trong đời sống hàng ngày mà ta có thể đo đạc được.
Việc thu hồi đất nông nghiệp vừa tạo ra biến đổi vĩ mô đó là biến đổi cơ cấu xã hội song vừa biến đổi vi ở chỗ đã tác động đến hành vi, tâm thế của từng cá nhân, từng hộ gia đình, từng độ tuổi, từng giới tính.
Do đó, vận dụng lý thuyết biến đổi xã hội cho phép luận án luận giải được một số khía cạnh của vấn đề nghiên cứu.
2.2.2. Lý thuyết di động xã hội
Lý thuyết di động xã hội không chỉ quan tâm đến sự di động một cách cơ học mà sâu xa hơn là đặt trọng tâm nghiên cứu sự dịch chuyển đị vị, vị thế xã hội của mỗi cá nhân trongcơ cấu xã hội, hệ thống phân tầng xã hội. Đã có nhiều nhà xã hội học nghiên cứu về di động xã hội: giữa thế kỷ XIX có K.Marx, M.Weber, T.Parsons, J.H.Fichte, J.Mill, đầu thế kỷ XX có M.Pareto, H.Kaelbel, A.Beteille và nhiều người khác. Thuyết di động xã hội phân tích sự dịch chuyển về vị trí, vị thế, địa vị xã hội của mỗi cá nhân trong hệ thống xã hội. Di động xã hội, còn gọi là sự cơ động xã hội hay dịch chuyển xã hội, là khái niệm xã hội học dùng để chỉ sự chuyển động của những cá nhân, gia đình, nhóm xã hội trong cơ cấu xã hội. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng 2010, Tr.78]
Trong mỗi hệ thống xã hội bao giờ các nhân cũng có những vị trí xã hội xác định. Vị trí xã hội hội (social position) của các cá nhân là vị trí tương đối của cá nhân trong cơ cấu xã hội, trong hệ thống các quan hệ xã hội nhất định. Mỗi cá nhân tham gia và các mối quan hệ xã hội khác nhau, và trong các mối quan hệ xã hội đó, cá nhân xác định được các vị trí xã hội của mình. Như vị trí xã hội của cá nhân trong gia đình, nhà trương, cơ quan, đơn vị....Vị trí xã hội của cá nhân được xác định trong sự đối chiếu, so sánh với các vị trí xã hội khác. Những vị trí xã hội bao giờ cũng đi cùng với cùng với những quyền lợi và nghĩa vụ tương ứng với các vị trí xã hội đó. Các quyền và nghĩa vụ này thường tương ứng với nhau, và chúng hoàn toàn phụ thuộc vào quan điểm chủ
quan của các xã hội, các nền văn hóa thậm chí của các nhóm xã hội nhỏ
Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng 2010, Tr89]. Do vậy vị thế xã hội của một người nào đó chính là địa vị hay thứ bậc mà những người sồng cùng thời dành cho trong bối cảnh anh ta sinh sống, lao động và phát triển Phan trọng Ngọ, 1997, Tr.55]. Tất cả mọi người đều có vị thế xã hội, từ lúc lọt lòng con người đã có vị thế xã hội của mình, nghĩa là vị thế không liên quan đến ý kiến chủ quan của mỗi người về bản thân mình mà vị thế xã hội của mỗi người là chỗ đứng, là thứ bậc mà xã hội dành cho một cách khách quan, hay là những gì mà những người trong xã hội nghĩ về cá nhân. Từ những quyền lợi, khả năng làm việc, khả năng ảnh hưởng và sự tôn trọng của xã hội đối với một vị thế xã hội dẫn đến địa vị xă hội của một các nhân trong đời sống xã hội. Mỗi một cá nhân tham gia vào nhiều cơ cấu xã hội khác nhau, nhiều hệ thống xã hội khác nhau. Do đó có thể có nhiều vị trí, vị thế, và địa vị xã hội khác nhau. Tuy nhiên khi nói đến địa vị xã hội của một chủ thể hành động ta luôn hướng tới một đánh giá chung về địa vị xã hội của các nhân trong lòng xã hội dựa trên địa vị xã hội trọng yếu mà các nhân đó có được (tùy thuộc vào văn hóa, thể chế, ý thức xã hội). Địa vị xã hội như vậy được xác định như là sự xác định vị trí của cá nhân trong cơ cấu xã hội, Tống Văn Chung 2005, Tr.33] nó mang tính chất ổn định, gắn liền với sự mong đợi đặc thù, những quyền và trách nhiệm của chủ thể hành động Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng 2010, Tr.298]. Các địa vị xã hội nằm trong một hệ thống xã hội xác định. Hệ thống xã hội như là một hệ thống các cá nhân tương tác với nhau trong một hoàn cảnh mà ít nhất cần có yếu tố vật chất hoặc môi trường, những chủ thể hành động (actors) được khuyến khích theo xu hướng thỏa mãn. Mối quan hệ giữa họ với hoàn cảnh của họ được xác định trong một hệ thống các biểu trưng được cấu trúc và cùng chia sẻ về mặt văn hóa” Tống Văn Chung 2005, tr.34]. Và sự di động xã hội được thể hiện qua sự thay đổi về địa vị xã hội. Những “địa vị xã hội gán cho” ít có khả năng thay đổi mà những “địa vị xã hội đạt được” sẽ
làm cho các các nhân có thể di động, “đổi vai” trong hệ thống xã hội. Như vậy đối với mỗi một các nhân cần xác định những vị trí, vị thế xã hội trong cấu trúc xã hội xem sét sự thay đổi về địa vị xã hội sẽ thấy quá trình di động xã hội, vị thế và vai trò của các nhân trong hệ thống xã hội.
Di động xã hội, còn gọi là sự cơ động xã hội hay dịch chuyển xã hội, là khái niệm xã hội học dùng để chỉ sự chuyển động của những cá nhân, gia đình, nhóm xã hội trong cơ cấu xã hội. Do vậy, di động xã hội liên quan đến sự vận động của con người từ một vị trí xã hội này đến một vị trí xã hội khác trong hệ thống phân tầng xã hội. Thực chất di động xã hội là sự thay đổi vị trí trong hệ thống phân tầng xã hội. Vấn đề di động xã hội liên quan tới việc các cá nhân giành vị trí, địa vị xã hội, liên quan tới điều kiện ảnh hưởng tới, sự biến đổi cơ cấu xã hội.
Người ta có thể phân biệt di động xã hội theo hai khía cạnh khác nhau. Một là di động giữa các thế hệ. Thế hệ con cái có địa vị cao hơn hoặc thấp hơn so với địa vị của thế hệ cha mẹ của họ. Đây là một trong những hình thức di động quan trọng trong xã hội. Hai là di động trong thế hệ. Trong trường hợp này, một người thay đổi vị trí nghề nghiệp, nơi cư trú trong cuộc đời làm việc của mình, có thể thấp hơn hoặc kém hơn so với người cùng thế hệ mình.
Di động xã hội được xác định như là sự vận động của các cá nhân hay một nhóm xã hội từ vị trí, địa vị này sang vị trí, địa vị khác. Vì vậy, khi nghiên cứu di động xã hội, các nhà xã hội học còn chú ý tới các hình thức di động khác: di động theo chiều ngang và di động theo chiều dọc.
Di động theo chiều ngang: chỉ sự vận động của các cá nhân giữa các nhóm xă hội, giai cấp xă hội tới vị trí ngang bằng về mặt xă hội. Theo A.Giddens, trong các xă hội hiện đại, di động theo chiều ngang cũng rất phổ biến, nó liên quan đến sự di chuyển địa lý giữa các khu vực, các thị trấn, thành phố hoặc các vùng Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng 2010, Tr.263].