khơi thông cống rãnh. Cấp phép xây dựng trên 1.600 hộ gia đình và trên 100 công trình xây dựng trụ sở làm việc của các cơ quan và xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
Để đạt được mục tiêu đến năm 2009, thị xã Tuyên Quang là đô thị loại 3 và đến năm 2010 trở thành thành phố trực thuộc Tỉnh; Đảng bộ, chính quyền, nhân dân các dân tộc thị xã Tuyên Quang đã và đang tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện nhiều nhiệm vụ trọng tâm. Những năm qua Cấp uỷ đảng chính quyền thị xã đã tập trung chỉ đạo triển khai nhiều việc làm cụ thể sát thực. Thị xã đã hoàn thành quy hoạch kế hoạch sử dụng đất đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; xây dựng đề án mở rộng địa giới hành chính, quy hoạch tổng thể thị xã thành lập thêm một số phường... Qua việc tổ chức lấy ý kiến đã được đông đảo nhân dân thị xã đồng tình nhất trí. Theo đó, thị xã sẽ tiếp nhận 5 xã của huyên Yên Sơn đó là các xã An Tường, Lưỡng Vượng, An Khang, Thái Long và xã Đội Cấn về thị xã Tuyên Quang và thành lập 4 Phường Nông Tiến, Hưng Thành , Tân Hà và Phường Ỷ La. Thị xã sẽ tiếp nhận toàn bộ diện tích trên 7.520 ha đất tự nhiên, trên 7.670 hộ và trên
30.500 nhân khẩu của 5 xã thuộc huyện Yên Sơn về thị xã Tuyên Quang; sau khi điều chỉnh địa giới hành chính thị xã Tuyên Quang sẽ có quy mô diện tích trên 11.900 ha với trên 23.250 hộ với trên 89.000 nhân khẩu. Tổng số đơn vị hành chính sau khi được điều chỉnh: 13 xã phường (7 phường, 6 xã) [83, tr.46]. Khi thị xã lên đô thị loại 3, cơ cấu mật độ dân số sẽ tăng lên, trong đó có tỷ lệ hộ làm nông nghiệp chiếm tỷ lệ đáng kể. Việc điều chỉnh địa giới hành chính mở rộng thị xã nhằm đáp ứng yêu cầu để phát triển các cơ sở hạ tầng, kết cấu hạ tầng , tạo quỹ đất phục vụ cho phát triển KT- XH của thị xã và của Tỉnh đến năm 2020, đồng thời đó là cơ sở để thị xã Tuyên Quang chuẩn bị lộ trình đến năm 2009 trở thành đô thị loại 3 theo mục tiêu nghị quyết Đại hội đảng bộ Tỉnh lần thứ 14.
Để đáp ứng yêu cầu, mục tiêu trong việc mở rộng quy hoạch thị xã trở thành đô thị loại 3 và trở thành thành phố trong tương lai, nhiệm vụ quan
trọng đó đã và đang đặt ra cho Đảng bộ, chính quyền thị xã nhiều việc phải làm. Trong chương trình công tác năm 2008, Ban chấp hành Đảng bộ thị xã đã xác định 23 chỉ tiêu chủ yếu và 6 nhiệm vụ trọng tâm. Trong đó đề ra những giải pháp tập trung lãnh đạo phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng, công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, công tác quy hoạch, quản lý đô thị, xây dựng cơ sở hạ tầng… Bên cạnh đó thị xã tập trung quy hoạch, nâng cấp mạng lưới giao thông hiện có, quy hoạch chi tiết các xã phường các khu đô thị, các công trình phúc lợi, đẩy nhanh tiến độ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhân dân, tăng cường công tác quản lý đất đai, quản lý hành lang đường bộ, tập trung huy động mọi nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng đô thị, kêu gọi các nhà đầu tư, các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh đầu tư xây dựng các khu vui chơi giải trí, khu du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng, các trung tâm thương mại dịch vụ đồng thời xây dựng và triển khai thực hiện các quy định trong công tác quản lý đô thị, xây dựng nếp sống văn minh đô thị.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong việc thực hiện lộ trình đưa thị xã thành đô thị loại 3, đó là làm sao từng bước chấm dứt tình trạng xây dựng sai trái, không phép, xây dựng vi phạm chỉ giới xây dựng hành lang quản lý đường bộ, lấn chiếm đất công… Để làm được việc đó, Thị xã tổ chức hội nghị chuyên đề về công tác quản lý hành lang đường bộ, qua đó từng bước lập lại trật tự trong lĩnh vực quản lý đô thị và xây dựng. Thị xã Tuyên Quang tập trung chỉ đạo đổi mới công tác tuyên truyền vận động, tăng cường lực lượng chức năng kiên quyết xử lý nghiêm minh các trường hợp cố tình vi phạm. Bên cạnh đó thị xã chú trọng quy hoạch các bãi đỗ xe, quy hoạch đi đôi với việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng cường công tác quản lý, kiểm tra các công trình công cộng đã xây dựng và nằm trong vùng quy hoạch, từ đó góp phần tạo tiền đề vững chắc để thị xã tiến nhanh, tiến vững chắc hoà cùng sự đổi mới của đất nước.
Nhiều năm qua thị xã trong tình trạng "Nhà không số phố không tên". Thực tế đó đã gây nhiều khó khăn trong công tác quản lý đô thị cũng như cho sự phát triển chung của thị xã. Trước thực trạng này, được sự quan tâm của tỉnh, thị xã đã xây dựng dự án lắp đặt biển tên đường phố, số nhà và các công trình công cộng. Dự án đang được thực thi, đây là một trong những việc làm quan trọng của thị xã nhằm thực hiện lộ trình lên đô thị loại 3 vào năm 2009, đó cũng là cơ sở để thị xã từng bước hoàn thiện hệ thống quản lý mạng lưới giao thông đường phố theo quy hoạch góp phần thực hiện đề án chỉnh trang đô thị. Trước mắt trên địa bàn thị xã Tuyên Quang sẽ có 33 đường, 37 phố được lắp đặt tên đường phố. Trong đó có 8 đường liên xã, phường; 4 đường, 11 phố thuộc phường Tân Quang, 4 đường 15 phố thuộc phường Minh Xuân, 4 đường 9 phố thuộc phường Phan Thiết, 7 đường 2 phố thuộc xã Ỷ La, 4 đường thuộc xã Hưng Thành, 1 đường thuộc xã Tràng Đà và 1 đường thuộc xã Nông Tiến. Ngoài ra còn có 5 hồ nước trên địa bàn thị xã Tuyên Quang được đặt tên. Theo đó sẽ có trên 800 cột biển đường phố, công trình công cộng được lắp đặt tên và hơn 19 nghìn biển số nhà sẽ được lắp đặt.
Thị xã đã đầu tư có trọng tâm, trọng điểm vào một số lĩnh vực được coi là thế mạnh của địa phương; Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh dịch vụ - du lịch, bộ mặt đô thị có nhiều đổi thay, đời sống vật chất, tinh thần của đông đảo nhân dân thị xã được cải thiện và từng bước được nâng lên rõ rệt… Tuy thị xã còn không ít khó khăn, thách thức song những việc làm đó là cơ sở, động lực, là bước đệm vững chắc để Đảng bộ, chính quyền nhân dân các dân tộc thị xã tiếp tục phát huy tinh thần đoàn kết từng bước đưa thị xã lên đô thị loại 3 vào năm 2009.
3.2.7. Hoạt động khoa học – công nghệ
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại với những bước tiến khổng lồ: “Một ngày bằng hai mươi năm” đang tác động toàn diện đến mọi nền kinh tế, mọi chế độ xã hội trên phạm vi toàn cầu. Cuộc đua tranh giữa các
quốc gia trên mặt trận kinh tế đang diễn ra rất quyết liệt. Một xã hội thông tin,
một nền kinh tế tri thức đã bắt đầu hình thành. Đó là một nền kinh tế mà sản xuất, dịch vụ dựa chủ yếu vào tri thức và công nghệ, khi mà ngành công nghệ thông tin chiếm tới 2/3 của GDP.
Thị xã Tuyên Quang là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội của tỉnh Tuyên Quang. Hoà chung trong công cuộc đổi mới của đất nước, trong những năm qua Đảng bộ và nhân dân thị xã đã tập trung khai thác tiềm năng thế mạnh, huy động mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Để có được những thành tựu phát triển, bên cạnh sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của cấp uỷ đảng, chính quyền từ cấp thị đến cơ sở còn phải kể đến việc mạnh dạn đầu tư, áp dụng khoa học công nghệ thông tin trong công tác quản lý điều hành, lao động sản xuất; việc ứng dụng công nghệ thông tin đã được cấp uỷ, chính quyền thị xã đặt lên hàng đầu.
Từ 2001 đến 2008: Hoạt động khoa học - công nghệ có bước tiến bộ. Thị xã đã chú trọng ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp, tiếp tục đưa các giống lúa, ngô mới có năng xuất cao vào sản xuất. ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của các cơ quan Đảng, Nhà nước; ứng dụng phần mềm tin học trong công tác quản lý, theo dõi và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất... bước đầu thực hiện xã hội hoá trong công tác vệ sinh môi trường; ứng dụng có hiệu quả một số tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong sản xuất nông, lâm nghiệp; sử dụng chế phẩm vi sinh ủ phân hữu cơ, che nilon cho cây lạc trồng vụ đông. Đầu tư thiết bị, công nghệ tiên tiến trong một số cơ sở sản xuất công nghiệp: Công ty phát triển công nghiệp lắp đặt dây truyền tách tuỷ bã mía làm thức ăn gia súc, dây truyền chế biến thức ăn gia súc, công xuất 15.000 tấn/năm, dây chuyền chế biến gỗ công xuất 50.000 m3 phôi gỗ/năm. Nhà máy xi măng cải tiến lắp đặt hệ thống cấp gió sử lý lệch lửa, nâng cao năng xuất chất lượng lò lung clanhke.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của công nghệ thông tin đối với quá trình phát triển, thị xã đã tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực, hầu hết các cơ quan đơn vị trên địa bàn đều có cơ chế khuyến khích, động viên, tạo điều kiện hỗ trợ để cán bộ, công chức tham gia các lớp đào tạo tin học, bên cạnh đó thị xã còn thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao trình độ về sử dụng, ứng dụng công nghệ thông tin cho lực lượng cán bộ viên chức trên địa bàn. Có 1.850 cán bộ có trình độ tin học cơ sở, 9 kỹ sư tin học, 10 cao đẳng tin học. Đến nay 100% cán bộ, công chức thuộc khối các cơ quan Đảng, Chính quyền, Đoàn thể có trình độ tin học chứng chỉ A trở lên, 70% trong số đó đạt chứng chỉ B trở lên. [75, tr.6]
Để tiếp tục nâng cao hiệu quả trong công tác đối với lực lượng cán bộ, công chức, tiến hành nối mạng thông tin giữa các cơ quan Đảng, chính quyền, đoàn thể, các đơn vị sự nghiệp thuộc thị xã, giữa thị xã với tỉnh phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo, nghiên cứu, trao đổi chuyên môn. Các trường học cũng được đầu tư các phòng máy vi tính phục vụ giảng dạy.
Với sự quan tâm đầu tư phát triển đúng hướng, công nghệ thông tin đã và đang được ứng dụng có hiệu quả ở các cấp, ngành, các tổ chức, doanh nghiệp, cộng đồng dân cư trong tất cả các lĩnh vực của thị xã và các dịch vụ hành chính cộng trên môi trường lành mạnh, đáp ứng được nhu cầu của đông đảo cán bộ, nhân dân và doanh nghiệp.
3.2.8. Môi trường
Trong quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng đạt tiêu chuẩn đô thị loại III và tiến lên thành phố vào năm 2010, vấn đề môi trường được Đảng bộ chính quyền thị xã chú trọng. Để giải quyết các vấn đề môi trường phát sinh trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của thị xã Tuyên Quang, các cấp, ngành, cộng đồng và các doanh nghiệp cũng đã có sự phối hợp cần thiết để triển khai những giải pháp đồng bộ mang tính tổng hợp, để xây dựng quy hoạch và bảo vệ môi trường. Với tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa chưa cao so với
các tỉnh trong khu vực và đồng bằng Bắc Bộ, thì đây vừa là khó khăn nhưng cũng là điều kiện để thị xã Tuyên Quang nhìn nhận những bài học kinh nghiệm trong quá trình đô thị hóa - bảo vệ môi trường từ các thành phố phát triển trước, để hoạch định cho mình bước đi vững vàng hơn trong việc xây dựng và phát triển bền vững.
Hiện trạng môi trường thị xã Tuyên Quang theo kết quả điều tra năm 2007 của Sở Tài nguyên và Môi trường: Môi trường đất; môi trường nước (nước mặt, nước ngầm, nước thải); môi trường không khí; chất thải rắn... Với hiện trạng môi trường thị xã Tuyên Quang như kết quả điều tra này, nhìn chung còn tương đối tốt. Duy chỉ ở một số điểm nút giao thông lớn của thị xã mới thấy biểu hiện của sự ô nhiễm môi trường không khí bởi tiếng ồn và nồng độ khí CO.[67, tr.105]
Tình hình quản lý và xử lý chất thải trên địa bàn thị xã Tuyên Quang hiện còn nhiều bức xúc. Trên địa bàn thị xã tuy đã có hệ thống thu gom nước thải nhưng có rất ít các hệ thống xử lý hoàn chỉnh. Rác thải đã được thu gom hàng ngày nhưng chưa được phân loại. Phương pháp xử lý còn rất thô sơ, chủ yếu là chôn lấp tạm thời.
Để giải quyết triệt để vấn đề chất thải, thị xã cần có kế hoạch đầu tư đúng mức vào công tác thu gom, phân loại chất thải rắn quy hoạch xây dựng bãi rác, nhà máy xử lý rác thải, nước thải tiên tiến, đặc biệt là xử lý chất thải bệnh viện; quan tâm tới việc xây dựng nhà máy tái chế, tái sử dụng chất thải.
Toàn bộ nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp nước thải bệnh viện (trừ bệnh viện đa khoa thị xã và bệnh viện Lao) chỉ được xử lý sơ bộ qua các hố ga, bể phốt lắng đọng trước khi thải vào hệ thống thoát nước thải công cộng, do đó hiệu quả của quá trình xử lý không cao và hầu hết các hệ thống xử lý đều chưa đạt yêu cầu kỹ thuật. Trong tổng lượng nước thải đô thị thì nước thải sinh hoạt chiếm 80 - 90% và đều chưa được xử lý hoặc chỉ được xử lý sơ bộ ở từng hộ gia đình. Nước thải được đổ vào hệ thống chung, thải trực
tiếp ra các sông suối. Hệ thống thoát nước công cộng chưa có trạm xử lý nước thải tập trung, các đường cống thường xuyên bị bùn cặn lắng đọng làm cho khả năng thoát nước kém. Riêng bệnh viện Lao và bệnh viện Đa Khoa thị xã Tuyên Quang đã có hệ thống xử lý nước thải hoàn chỉnh. Nước thải sau xử lý đạt tiêu chuẩn cho phép.
Hầu hết các cơ sở sản xuất trong thị xã đều chưa thực hiện việc xử lý chất thải, hoặc đã có hệ thống xử lý nhưng không hoạt động thường xuyên, nên đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường. Nguyên nhân chính là do các cơ sở sản xuất đều có quy mô sản xuất nhỏ, tài chính hạn hẹp và chi phí lắp đặt, vận hành các thiết bị xử lý ô nhiễm môi trường còn quá cao.
Qúa trình đô thị hoá - công nghiệp hoá đã và đang diễn ra mạnh mẽ nhanh hơn năng lực của hệ thống quản lý. Đây là nguyên nhân gây nên những bất cập về môi trường ở khu vực đô thị và khu vực công nghiệp thị xã Tuyên Quang (thành phố Tuyên Quang 2010), tạo nên những đe dọa tiềm ẩn cho sự phát triển bền vững.
Để đảm bảo cho sự phát triển bền vững của địa phương, việc nâng cao năng lực quản lý của chính quyền địa phương trong quản lý môi trường đô thị và khu công nghiệp là một nhu cầu cấp bách. Công cụ phục vụ cho công tác quản lý phát triển đô thị và khu công nghiệp chính là bản đồ quy hoạch môi trường đô thị và khu công nghiệp. Trong các giải pháp quản lý, bên cạnh những biện pháp hành chính, việc động viên sự tham gia của cộng đồng trong các hoạt động bảo vệ môi trường sống đang giữ vai trò ngày càng quan trọng. Xác định các nhóm cộng đồng cùng với các đặc điểm tâm lý và tập quán là cơ sở để xây dựng các chương trình vận động sự tham gia của cộng đồng. Sự phát triển của các phương tiện truyền thông là sự hỗ trợ quan trọng trong các chương trình vận động cộng đồng.
3.3. Chuyển biến về xã hội
3.3.1. Kết cấu dân cư và tốc độ tăng dân số - Lao động và việc làm Kết cấu dân cư và tốc độ tăng dân số
Dân số là một trong các yếu tố quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Dân số đóng vai trò vừa là yếu tố phát triển đồng thời cũng là mục tiêu để phấn đấu phải đạt được thông qua các chỉ tiêu giảm dân số để nâng cao thu nhập đầu người, giảm tỷ lệ thất nghiệp, tăng việc làm để phát triển kinh tế và nâng cao mức sống người dân.
Bảng 3.4. Dân số và lao động thị xã từ 2001 đến năm 2008
Đơn vị: Người
2001 | 2002 | 2004 | 2005 | 2006 | 2007 | 2008 | |
1. Dân số | 54840 | 55337 | 55958 | 56472 | 57038 | 58228 | 119019 |
Nam | 27303 | 27232 | 27404 | 27655 | 27847 | 28819 | 58286 |
Nữ | 27573 | 28105 | 28554 | 28817 | 29164 | 29409 | 60733 |
Thành thị | 26854 | 27421 | 28063 | 28567 | 28619 | 28865 | 59920 |
Nông thôn | 27986 | 27916 | 27922 | 27905 | 28419 | 29363 | 59099 |
2. Lao động | 33809 | 33794 | 35000 | 35063 | 35933 | 35996 | 75577 |
Có thể bạn quan tâm!
- Công Nghiệp - Tiểu Thủ Công Nghiệp (Đẩy Mạnh Công Nghiệp Hoá, Hiện Đại Hoá)
- Nghiên cứu tình hình thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang trong thời kỳ từ năm 1991 đến năm 2008 - 7
- Diện Tích Sản Lượng Trồng Trọt Từ 2000 Đến 2008
- Giáo Dục Phổ Thông Thị Xã Tuyên Quang Giai Đoạn 2000 - 2008
- Quốc Phòng - An Ninh - Trật Tự An Toàn Xã Hội.
- Nghiên cứu tình hình thị xã Tuyên Quang, tỉnh Tuyên Quang trong thời kỳ từ năm 1991 đến năm 2008 - 12
Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.
[16],[22],[62],[67]
Theo niên giám thống kê tỉnh Tuyên Quang năm 2006, dân số năm 2006 của thị xã Tuyên Quang là 57.038 người với 15.420 hộ gia đình, tăng 611 người và 206 hộ so với năm 2005. Trong số hộ nhân khẩu thực tế thường trú tại tỉnh có
29.164 nữ, chiếm 51,13%; nam có 27.874 người, chiếm 48,86%; dân số thành thị là 28.619 người, tăng 113 người so với năm 2005, nông thôn là 28.419 người, tăng 453 người. Mật độ dân số trung bình năm 2006 của thị xã Tuyên Quang là
1.298 người/km2. Toàn thị xã có 35.933 người trong độ tuổi lao động, chiếm
62,948% dân số. Số người trong độ tuổi lao động ở nông thôn là 19.059 người, tăng 453 người so với năm 2005; khu vực thành thị là 16.874 người, tăng 397
người. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2006 là 8,94%, giảm 0,75% so với năm 2005 và 0,42% so với năm 2003. Nhưng vẫn chưa đạt về mức năm 2000 là 6,09%, tức vẫn vượt năm 2000 là 2,85%. Tỷ lệ sinh năm 2006 là 14,90 %, so với năm 2005 là 15,62%, so với năm 2003 là 14,63. [16, tr.49]
Nhìn chung, mật độ dân số tỉnh Tuyên Quang đang ở mức thấp, phân bố không đồng đều. Nơi có mật độ cao nhất là thị xã Tuyên Quang với 1.298 người/km2. Nơi có mật độ dân số thấp nhất là huyện Na Hang với 39 người/km2. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên qua các năm có sự dao động, nhưng vẫn đứng ở mức cao. Năm 2008 với việc quy hoạch mở rộng đô thị nên đã có sự biến động, diện tích đất tự nhiên toàn thị xã tăng lên 119,18km2, dân số là
92.413 người, số người trong độ tuổi lao động nội thị là 35.503 người, chiếm 64,96% so với tổng dân số nội thị, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2008 là 9,46%, tỷ lệ sinh năm 2008 là 15,58 %.[16, tr.60]
Trong qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp - thương mại, dịch vụ, du lịch - nông lâm nghiệp, giảm tỷ trọng nông lâm - thuỷ sản, quá trình đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ dẫn tới dân số đô thị ngày một tăng, nhưng vấn đề dân số vẫn ở mức bình ổn. Việc đô thị hoá, mở rộng địa giới hành chính, phát triển các dự án để xứng tầm đô thị mới lại càng tạo thêm nhiều cơ hội việc làm cho người dân.
Lao động và việc làm:
Theo thống kê năm 2007, toàn thị xã có 36.390 người trong độ tuổi lao động, chiếm 62.495% dân số. số người lao động phi nông nghiệp là 30.326 người; diện tích đất tự nhiên là 43,94 km2. Sang năm 2008, sau quyết định thay đổi địa giới hành chính, mở rộng thị xã, toàn thị xã có 60.216 người trong độ tuổi lao động, chiếm 65.159% dân số. số người lao động phi nông nghiệp là 40.316 người; diện tích đất tự nhiên là 119,18 km2. [100, tr.50]
Nhìn chung, lực lượng lao động của thị xã khá dồi dào nhưng trình độ lao động chưa cao, tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp, số người trong độ tuổi lao
động đang trong tình trạng thiếu việc làm, làm thời vụ hoặc thất nghiệp còn nhiều và phần lớn trong số đó thuộc khu vực nông thôn.
Vấn đề lao động, việc làm đã được các cấp, các ngành quan tâm. Giai đoạn 2001 - 2005 thị xã Tuyên Quang đã giải quyết việc làm cho hàng nghìn lao động, trong đó có cả xuất khẩu lao động. Giảm tỷ lệ thất nghiệp khu vực thành thị xuống còn 4,17% năm 2005; nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở khu vực nông thôn lên 80%; tỷ lệ lao động qua đào tạo là 20%, trong đó đào tạo nghề là 9,15%. [28, tr.31]
Thông qua các chương trình hỗ trợ việc làm như Chương trình vay vốn Quốc gia giải quyết việc làm, đào tạo nghề gắn với việc làm. Đã tạo việc làm mới cho 2.685 lao động (trong đó lao động sản xuất công nghiệp - thủ công nghiệp 1.350 người, thương mại - dịch vụ 763 người, nông - lâm nghiệp 572 người), tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề đạt 52%, số hộ có nhà xây trong toàn thị xã đạt 97%. Đối tượng ưu tiên cho vay vốn là các hộ gia đình không có việc làm, gia đình chính sách, bộ đội xuất ngũ, học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học chưa có việc làm... Tổ chức giới thiệu việc làm trong thị trường lao động: Trung tâm dịch vụ việc làm thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội đã thực hiện tư vấn giới thiệu việc làm cho trên 50.000 lượt người. Điều tra thống kê và thông tin thị trường lao động: Hàng năm kết hợp điều tra cung cấp thông tin phục vụ chương trình lao động - việc làm cho các huyện, thị xã. Năm 2004, thị xã đã tổ chức Hội chợ việc làm, qua Hội chợ đã thu hút được trên 28.000 người tham gia và tuyển dụng được trên 2.500 lao động.
Trong những năm qua, UBND thị xã Tuyên Quang đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ vốn giúp thanh niên, đặc biệt là lao động nông thôn có điều kiện đầu tư phát triển kinh tế, vươn lên làm giàu cho gia đình và xã hội. Để khai thác có hiệu quả nguồn lực lao động này, Thị xã đã triển khai nhiều chương trình hỗ trợ đồng hành với thanh niên trong lập thân, lập nghiệp. Hàng năm, phối hợp chặt chẽ với Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội liên kết với các doanh nghiệp, các trung tâm dạy nghề trong và ngoài tỉnh tổ
chức tư vấn, định hướng và giới thiệu việc làm cho thanh niên nông thôn. Từ đó giúp thanh niên xác định đúng hướng đi, tìm được việc làm, có thu nhập và tạo ra của cải cho xã hội. Từ chương trình hỗ trợ việc làm cho thanh niên nông thôn, nhiều người đã xác định cho mình một công việc phù hợp, có thu nhập ổn định, tạo môi trường để phát huy khả năng, trí tuệ làm giàu, đồng thời góp phần ngăn chặn tệ nạn xã hội xâm nhập vào đời sống. Đẩy mạnh chương trình hỗ trợ việc làm cho lao động nông thôn, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu giảm nghèo của thị xã.
Đạt được kết quả trên là nhờ vào chương trình giải quyết lao động - việc làm và xuất khẩu lao động đã được sự quan tâm của các cấp, ngành, đoàn thể và các tổ chức xã hội, cũng như sự nỗ lực của mỗi gia đình và bản thân người lao động. Đặc biệt là các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất khi tuyển dụng lao động đã quan tâm tuyển lao động tại chỗ và là người địa phương.
Ngoài ra, thị xã còn cụ thể hoá các văn bản hướng dẫn của Nhà nước bằng hệ thống văn bản hướng dẫn tổ chức thực hiện và được ban hành kịp thời, phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương, tạo cho các cơ sở sản xuất, các tổ chức xã hội và người lao động có sự năng động, sáng tạo, không thụ động trông chờ vào sự giúp đỡ của Nhà nước, người lao động đã tự tạo việc làm hoặc tự tìm kiếm việc làm, không phân biệt thành phần kinh tế.
Tuy nhiên vẫn còn mặt hạn chế, tồn tại là chất lượng, trình độ của người lao động còn thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của nhà doanh nghiệp, đơn vị sản xuất, nên năng suất lao động không cao, ít có cơ hội hoà nhập với nền kinh tế thị trường. Hệ thống đào tạo nghề, tư vấn việc làm của tỉnh chưa được quan tâm đầu tư, công tác đào tạo nghề chất lượng còn yếu, công tác đào tạo, dạy nghề chưa gắn với tư vấn, dịch vụ giới thiệu việc làm cho người lao động. Việc cung cấp thông tin thị trường lao động chưa kịp thời, công tác tư vấn giới thiệu việc làm trong và ngoài nước chưa tích cực, số lao động đi làm việc trong các nhà máy, các khu công nghiệp trong nước chưa cao. Công tác báo cáo tình hình thực hiện chương trình của các ngành, các cấp, chưa đầy
đủ, chưa kịp thời nên chưa đánh giá được hiệu quả cụ thể của từng giải pháp đối với công tác giải quyết việc làm theo từng lĩnh vực.
Hạn chế trên là do một số cấp uỷ, chính quyền, chưa thực sự quan tâm chỉ đạo tổ chức thực hiện chương trình; nhận thức của người lao động còn thụ động, trông chờ ỷ lại vào Nhà nước, chưa tự tìm được việc làm. Sản xuất kinh doanh của thị xã phát triển chưa cao, chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm, đặc biệt các ngành công nghiệp, thương mại và dịch vụ, do đó việc thu hút lao động và giải quyết việc làm còn gặp nhiều khó khăn. Thị trường lao động chưa được coi trọng và phát triển. Đội ngũ cán bộ làm công tác tư vấn, giới thiệu việc làm và xuất khẩu lao động có trình độ, năng lực nghiệp vụ còn hạn chế, nên ảnh hưởng đến việc tổ chức thực hiện công tác lao động - việc làm ở cơ sở.
3.3.2. Giáo dục - đào tạo - văn hóa - thể thao
a. Giáo dục và đào tạo
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh vì một nền giáo dục của dân, do dân và vì dân, giáo dục nước ta là một quyền cơ bản của dân, quyền được học hành. Đó là lợi ích công mà chính quyền địa phương có trách nhiệm củng cố và phát triển không ngừng. Do đó, chính quyền thị xã Tuyên Quang đã đóng vai trò chủ đạo trong việc cung ứng và quản lý giáo dục. Đặc biệt đối với giáo dục phổ thông là cấp học cơ sở, là cấp hình thành nhân cách công dân. Phải bảo đảm thực hiện công bằng xã hội, tạo cơ hội học tập cho mọi người, quan tâm đến vùng dân tộc. Không xem giáo dục là dịch vụ thương mại như các dịch vụ khác.
Qua gần 20 năm, mặc dù được sự quan tâm của các cấp chính quyền địa phương và có kế hoạch phát triển giáo dục, đào tạo phù hợp, nhưng do Tuyên Quang là tỉnh miền núi, điều kiện kinh tế - xã hội còn nhiều khó khăn, nên trong những năm qua, phong trào giáo dục của tỉnh chưa thực sự được phát triển bền vững. Mặc dù vậy, thị xã Tuyên Quang vẫn là trung tâm phát triển giáo dục của cả