Chiếc mũ tai bèo đã cùng anh giải phóng quân tung hoành ngang dọc trên khắp chiến trường chống Mĩ. Chiếc mũ ấy nhỏ bé, hiền lành dễ thương như một bàn tay nhỏ, chẳng làm đau một chiếc lá trên cành nhưng nó cũng lớn lao, thần kì, nó có thể làm nên những kì tích vang dội năm châu, chấn động địa cầu, làm run sợ cả lầu năm góc. Chiếc mũ tai bèo vừa là biểu tượng của lòng nhân ái vừa là biểu tượng của lòng dũng cảm vô song. Nó chính là ẩn dụ của phẩm chất anh bộ đội cụ Hồ trong thời đại chống Mĩ, những chàng Thạch Sanh đã viết nên những huyền thoại đẹp của thế kỉ XX.
Biểu tượng miền Nam - thành đồng Tổ quốc còn được Tố Hữu khắc họa trong nhiều hình ảnh ẩn dụ khác như: người lính đi đầu, trái tim làm ngọn lửa... Mỗi hình ảnh lại gợi một nét riêng, đem đến một sắc điệu thẩm mỹ riêng, song nhìn chung đều tập trung khắc họa một miền Nam kiên trung, bất khuất, nhân hậu và giàu hi sinh, một miền Nam đã tỏa sáng trên đài chiến thắng.
Khi nói đến những ẩn dụ trong thơ Tố Hữu, hẳn người ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh trái tim. Đây là một hình ảnh ẩn dụ trở đi trở lại trong nhiều bài và nhiều tập thơ của ông. Trái tim, nơi hội tụ của khí huyết, đã được nhà thơ lấy làm một biểu tượng đẹp của tình yêu, của bầu máu nóng tràn đầy nhiệt tình cách mạng. Ở những dòng thơ viết về xứ Huế, thi sĩ đã để ngỏ lòng mình nơi trái tim đang đập những nhịp đập yêu thương tha thiết:
Hương giang ơi, dòng sông êm
Quả tim ta vẫn ngày đêm tự tình
(Bài ca quê hương)
Rồi khi viết về sức mạnh bách chiến bách thắng của dân tộc trong cuộc Cách mạng Tháng tám, Tố Hữu lại khắc họa hình ảnh trái tim hồng vụt chói sáng trong vồng ngực của chàng lực sĩ:
Ngực lép bốn nghìn năm, trưa nay cơn gió mạnh Thổi phồng lên. Tim bỗng hóa mặt trời
(Huế tháng Tám)
Có thể bạn quan tâm!
- ẨN DỤ TU TỪ TRONG THƠ TỐ HỮU - 6
- Tính Chất Của Hình Ảnh Ẩn Dụ Trong Thơ Tố Hữu
- Tạo Lập Ẩn Dụ Với Những Hình Ảnh Thơ Tràn Đầy Cảm Xúc Trạng Thái Mạnh Mẽ, Say Mê, Trẻ Trung, Giầu Nhiệt Huyết
- ẨN DỤ TU TỪ TRONG THƠ TỐ HỮU - 10
- ẨN DỤ TU TỪ TRONG THƠ TỐ HỮU - 11
- ẨN DỤ TU TỪ TRONG THƠ TỐ HỮU - 12
Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.
Tim bỗng hóa mặt trời là một hình ảnh ẩn dụ đẹp, kỳ vĩ, mang màu sắc sử thi, huyền thoại. Nó thể hiện sức vươn dậy kì diệu của đất nước, của mỗi cá nhân anh hùng ở cái khoảnh khắc đáng nhớ của lịch sử.
Trái tim của Tố Hữu trong thơ là biểu tượng của sự hội tụ với biết bao cung bậc cảm xúc. Ở đấy là một khối hồng dồn nén cảm xúc yêu thương:
Ta biết em rất khỏe, tim ơi!
Không khóc đấy. Nhưng mà sao nóng bỏng
(Bài ca mùa xuân 1961)
Trái tim ấy không chỉ mang nhịp đập của một tấm lòng thi sĩ mà còn thức đập với bao nỗi khổ, niềm vui của những cuộc đời.
Hay trái tim giàu khát vọng, muốn dâng hiến cho đất nước, quê hương. Trái tim yêu thương, trái tim nhân hậu mà Đảng đã cho mỗi con người trong cuộc sống này. Những cung bậc cảm xúc ấy được gửi trong hình ảnh: trái tim giàu dồn nén nhiều cảm xúc. Đó là trái tim biết yêu thương "người yêu người sống để yêu nhau":
Đảng cho ta trái tim giàu
Thẳng lưng mà bước, ngẩng đầu mà bay !
(Bài ca mùa xuân 1961) "Trái tim" ấy còn nhức nhối, quặn đau vì Miền Nam máu chảy:
Có thể nào yên ? Miền Nam ơi máu chảy Tám năm rồi. Sáng dậy, giữa bình minh Tim lại đau, nhức nhối nửa thân mình
(Có thể nào yên ?)
Trái tim nhói đau niềm cô đơn, trống vắng của người thi sĩ trước cuộc đời dâu bể:
Có khổ đau nào đau khổ hơn Trái tim tự xát muối cô đơn
(Một tiếng đờn)
Trái tim ân tình, ân nghĩa với anh em, đồng chí đã soi đường chỉ lối cho con người trong mọi hoàn cảnh:
Mây dày không thấy đâu trời đất Mà trái tim ta chẳng lạc đường
(Về chiến khu xưa)
Khi trái tim lớn ấy mang biểu tượng của lãnh tụ thì nó lớn lao, có sức ôm trùm tất cả:
Người là Cha, là Bác, là Anh
Quả tim lớn lọc trăm dòng máu đỏ
(Sáng tháng năm)
Và khi trái tim là biểu tượng của Tổ quốc Việt Nam thì nó thật vĩ đại và ngời sáng ánh hào quang của những giá trị vĩnh cửu:
Ôi ! Việt Nam, đất nước nghĩa tình Trái tim lớn yêu Chân Thiện Mĩ
(Chào xuân 99)
Cùng với hình ảnh trái tim, hình ảnh con đường cũng được sử dụng nhiều lần trong thơ Tố Hữu để đem đến những biểu tượng giầu ý nghĩa. Có khoảng trên 30 lần hình ảnh này xuất hiện. Ví dụ:
(1) Đường thơm tho như mật bọng trưa hè
(Hy vọng)
(2) Ta bước tới. Chỉ một đường: Cách mạng
(Như những con tàu)
(3) Đường tranh đấu không bao giờ thoái bộ
(Trăng trối)
(4). Như con chim chích Nhảy trên đường vàng
(Lượm)
(5) Đường cách mạng dài theo kháng chiến
(Ta đi tới)
(6) Đường gai góc đang nở đầy hoa thắm
(Trên miền Bắc mùa xuân)
(7) Đường hạnh phúc gian nan lắm khúc
(Ba mươi năm đời ta có Đảng)
(8) Đường nở ngực. Những hàng dương liễu nhỏ Đã lên xanh như tóc tuổi mười lăm
(Bài ca mùa xuân 1961)
(9) Phải chăng có những khúc đường nóng lạnh
(Trên đường thiên lí)
(10) Đường vui không đợi mùa trăng
(Đường vào)
(11) Đường ra phía trước. Đường về tuổi xuân
(Nước non ngàn dặm)
(12) Con đường xưa của trái tim, đường này
(Nước non ngàn dặm)
(13) Sợ chi khúc khuỷu đường muôn dặm
(Bảy mươi)
Hình ảnh con đường trong những câu thơ trên không còn dùng với nghĩa gốc vốn có mà đã chuyển nghĩa mới. Nội dung, sắc thái ý nghĩa và mức độ biểu cảm của các ẩn dụ trong mỗi câu thơ có khác nhau. Vì thế, nó đã đem lại cho hình tượng thơ nhiều tầng nghĩa mới. Có thể xếp 13 ẩn dụ đường thơm tho, đường cách mạng, đường tranh đấu, đường vàng, đường gai góc, đường hạnh phúc, đường nở ngực, khúc đường nóng lạnh, đường vui, đường về tuổi xuân, con đường xưa của trái tim, đường muôn dặm vào 4 nhóm gần gũi nhau:
Nhóm 1: ẩn dụ ở câu 1 đường thơm tho, câu 4 đường vàng, câu 7 đường hạnh phúc câu 8 đường nở ngực và câu 10 đường vui ngầm hiểu là con đường của niềm vui, con đường hạnh phúc, con đường chiến thắng. Con đường vốn cụ thể, hữu hình, giờ đây được cảm nhận qua khứu giác với hương thơm, qua tâm trạng, niềm vui và hạnh phúc. Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác được Tố Hữu sử dụng thật tinh tế. Phải là người có tâm hồn trẻ trung, mến yêu cuộc sống đến nhường nào thì Tố Hữu mới có những rung cảm tinh tế đến thế ! Phải là người nghệ sĩ đầy tài năng thì ông mới chọn lựa được ngôn từ đẹp đến vậy! Quả thật, nói như Xuân Diệu "Thơ hay, lời thơ chín đỏ trong cảm xúc".
Nhóm 2: Ở câu 2 - 3 và câu 5, ẩn dụ đường cách mạng và đường tranh đấu để chỉ con đường hoạt động cách mạng của người chiến sĩ cộng sản. Lý tưởng Đảng đã soi đường chỉ lối cho nhà thơ và cho dân tộc Việt Nam. Cả dân tộc một lòng đi theo con đường ấy. Vì thế, con đường cách mạng đầy gian khổ hi sinh đã trở thành con đường chiến thắng, đường vui, đường hạnh phúc.
Nhóm 3: Trong câu 6 - 9 và câu 13, đường gai góc, khúc đường nóng lạnh và đường muôn dặm là ẩn dụ chỉ những khó khăn, thử thách trên con đường cách mạng mà dân tộc ta phải đương đầu và vượt qua. Đó không chỉ là con đường chiến tranh đầy chết chóc còn là con đường đầy thử thách trong công cuộc dựng xây đất nước hôm nay. Đó là những gai góc trong cuộc sống,
những khuất lấp trong tư tưởng, những thói xấu, lạc hậu và trì trệ, thói cá nhân ích kỉ, sự cơ hội…mà mỗi người cần nhận thấy để đấu tranh và vượt qua những thử thách ấy.
Nhóm 4: Ở câu 11- 12 là con đường của kỷ niệm, kí ức đường về tuổi xuân, con đường xưa. Sự trở về thật ngọt ngào, tươi mới như buổi ban đầu. Cái thưở bừng nắng hạ trong tâm hồn người thanh niên trẻ tuổi khi gặp ánh sáng của lý tưởng Đảng lúc nào cũng tươi mới, trinh nguyên. Nó được bao bọc trong ánh hào quang của hoài niệm rất đỗi ngọt ngào. Con đường đầy nắng hồng và xuân sắc mà Tố Hữu đã trọn đời dâng hiến cho quê hương đất nước cứ thức hoài trong nỗi nhớ niềm thương của ông.
Hình ảnh ẩn dụ con đường trong thơ Tố Hữu phần nào giúp người đọc hình dung về những gian khổ, hi sinh mà nhân dân ta phải trải qua trong chiến tranh cũng như niềm vui chiến thắng của dân tộc qua các chặng đường cách mạng. Những năm kháng chiến chống Mĩ, cứu nước, nhiều lần nhà thơ đã vào tuyến lửa và mang về những "chùm hoa thơ nóng bỏng" góp phần đốt cháy lên ngọn lửa anh hùng cách mạng rực rỡ của con người dân tộc - dũng sĩ trong thời đại. Dù đã ở tuổi khá cao, năm 1973, không quản ngại gian lao, nguy hiểm, Tố Hữu vẫn làm cuộc hành hương vào chiến trường miền nam, dọc theo tuyến Trường Sơn - đường mòn Hồ Chí Minh để làm nên những câu thơ hùng tráng và bi tráng về tiền tuyến lớn có sức lay động đến toàn quân:
Trường Sơn, xẻ dọc, rọc ngang
Xẻng tay mà viết nên trang sử hồng. Trường Sơn, vượt núi, băng sông Xe đi trăm ngả, chiến công bốn mùa
(Nước non ngàn dặm)
Nhận thức hiện thực cuộc sống thông qua các hình ảnh giàu sức biểu cảm là một chức năng của ẩn dụ tu từ. Các hình ảnh ẩn dụ như hình ảnh mùa
xuân, cành lá quế, chiếc mũ tai bèo, trái tim và con đường đã phân tích ở trên đều đã cho thấy khả năng khắc họa hình tượng của ẩn dụ trong thơ Tố Hữu. Qua phép ẩn dụ, hình tượng nghệ thuật hiện lên đẹp hơn, sống động hơn và luôn luôn lung linh, biến ảo. Con người đi nhiều, từng trải nhiều, sống chết nhiều với cuộc sống đã giúp cho nhà thơ có sự tinh tế trong óc quan sát, liên tưởng, đối chiếu các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thực tế khách quan với thế giới nội tâm con người để từ đó có thể sáng tạo được nhiều hình ảnh ẩn dụ độc đáo.
3.2. CHỨC NĂNG BIỂU CẢM
Cùng với xu thế phát triển của ngôn ngữ, việc làm phong phú cách diễn đạt, việc mở rộng phương thức chuyển nghĩa theo phép ẩn dụ đã đáp ứng phần lớn nhu cầu biểu đạt cảm xúc thẩm mỹ tinh tế của con người. Ẩn dụ tu từ có khả năng làm "mềm hóa" những vấn đề được coi là khó diễn đạt. Nó là công cụ để diễn đạt tình cảm một cách kín đáo và tế nhị, thể hiện nhận thức sâu sắc về đối tượng. Do đó mà ẩn dụ không chỉ có giá trị hình tượng, là phương tiện để xây dựng hình tượng mà còn hàm chứa sức mạnh biểu cảm lớn [32, tr. 196].
Là nhà thơ của những tình cảm lớn, Tố Hữu đã thể hiện tình yêu đối với lý tưởng, với nhân dân, đất nước trên những trang thơ. Ông không khỏi nghẹn ngào, xót xa khi nói về những đau thương của dân tộc trong chiến tranh qua những hình ảnh ẩn dụ: lửa cháy, máu lửa, biển máu, máu và hoa... Nhà thơ dõng dạc khẳng định nhân phẩm và tầm vóc Việt Nam trong thời đại bằng những liên tưởng đẹp: vàng nhân phẩm, hoa cương, cẩm thạch, bạc vàng, ngọn lửa …trong thơ.
Ẩn dụ là phương tiện đắc lực giúp nhà thơ thể hiện được những điều mong manh tinh tế trong đời sống tình cảm của con người. Những cung bậc cảm xúc như buồn - vui, sướng - khổ, đau thương - hạnh phúc… được hiện lên trong Tố Hữu một cách sống động. Ông đã dùng cách nói ẩn dụ tu từ để thể hiện tình yêu đối với nhân dân, đất nước, với lý tưởng cách mạng.
Tố Hữu ca hát về mình, ca hát về nhân dân, về đất nước qua những hình ảnh thơ chan chứa cảm xúc. Cũng như các hình ảnh nói chung trong thơ Tố Hữu, hình ảnh ẩn dụ của thơ ông không chỉ có giá trị tạo dựng hình tượng mà còn có giá trị biểu cảm mạnh mẽ. Chẳng hạn như tâm hồn của nhà thơ rạo rực, ngây ngất khi bắt gặp lý tưởng cách mạng được ngân rung hàng loạt những hình ảnh ẩn dụ gợi cảm như: say mùi hương chân lí, mặn nồng hứa hẹn biết bao hoa, …
Đang say sưa hoạt động cách mạng, người cộng sản trẻ tuổi bị bắt giam trong nhà lao đế quốc. Nỗi buồn thương của nhà thơ được gửi trong tâm trạng của con hổ bị giam trong cũi sắt:
Khi con hổ thênh thang trong rú rậm
Say hương cây bỗng mắc cạm giăng thầm Nằm dài lưng trong cũi sắt trăm năm
Nó có nhớ buồn chăng, xa bóng núi ?
(Nhớ người)
Dự cảm về cảnh ngộ của con hổ khi bị giam cầm phải xa rừng, xa hương cây, sắc hoa, gió ngàn. Nhân hóa: nó, có nhớ làm cho hình ảnh có hồn và sống động. Mượn chuyện hổ cách li "bóng núi" để nói chuyện bản thân mình khi phải xa đồng chí, anh em là cách sử dụng ẩn dụ nhằm nói những điều tinh tế, khó nói trong tâm hồn. Cách nói kín đáo và tế nhị đã giúp Tố Hữu thể hiện được nỗi buồn nhớ, cô đơn của mình trong những ngày bị bắt giam tại nhà lao Thừa Thiên - Huế. Thử hỏi, có cách nói nào tế nhị và khéo léo hơn thế. Ẩn dụ tu từ đã giúp cho người nghệ sĩ bộc lộ được những điều khó nói một cách ý nhị nhất.
Không chỉ nói về nỗi buồn nhớ, nhà thơ còn nói tới nỗi đau đớn khi quê hương bị giặc chiếm đóng và hủy diệt:
Giặc về giặc chiếm đau xương máu Đau cả lòng sông, đau cỏ cây
(Quê mẹ)