ẨN DỤ TU TỪ TRONG THƠ TỐ HỮU - 10


Nỗi đau quê mẹ bị hủy diệt không còn chỉ là nỗi đau của mỗi cá nhân mà cảm xúc ấy đã lan tỏa và trùm sang cả lòng sông, ngọn cỏ, cành cây. Hình ảnh đất nước hiện lên như một cơ thể sống, bà mẹ Tổ quốc quằn quại trong khói lửa chiến tranh đã gây xúc động mạnh mẽ trong lòng người, gợi nỗi xót đau nhức nhối và lòng căm hờn tột độ quân xâm lược. Ở đây, ẩn dụ tu từ đã trở thành một thủ pháp hữu hiệu để nhấn mạnh những sắc thái cảm xúc mãnh liệt.

Căm thù kẻ xâm lược tới bầm gan, tím ruột, Tố Hữu đã dùng ẩn dụ vật hóa một cách tài tình để chỉ mặt, gọi tên chúng. Chỉ cần gọi tên bầy lang sói cũng đủ thấy thái độ của nhà thơ đối với lũ giặc. Ông gọi chúng là bầy chó Mĩ; bầy ma quỷ; bầy hùm sói hay lũ sói beo,…Gọi kẻ thù là bầy, gắn với bản chất của loài thú dữ ăn thịt người không tanh. Không cần nhiều lời, tác giả vẫn đanh thép kết tội và nguyền rủa lũ chúng một cách thích đáng. Đó chính là quy luật kiệm lời mà ẩn dụ đem lại cho thơ ca được Tố Hữu đã khai thác một cách triệt để.

Điều gì đem lại cho ẩn dụ tu từ trong thơ Tố Hữu sức biểu cảm lớn lao đến vậy ?

Thứ nhất, việc hình thành những đối lập về ngữ nghĩa giữa các đơn vị ngôn từ trong phép ẩn dụ đã tạo nên sắc thái biểu cảm. Tố Hữu đã sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ tu từ trong sự đối lập về nghĩa.

Đối lập giữa ta - địch cũng là sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối, giữa cái cao cả với cái thấp hèn…Qua sự đối lập ấy, nhà thơ muốn khẳng định ngợi ca vẻ đẹp và sức sống mãnh liệt của cái cao cả:

Người rực rỡ một mặt trời cách mạng Mà đế quốc là loài dơi hốt hoảng

Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người

(Sáng tháng năm)


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 134 trang tài liệu này.

Ẩn dụ mặt trời cách mạng chỉ nguồn sáng rực rỡ, chói chang và có sức thiêu đốt mạnh mẽ, kì diệu. Bác được hiểu như nguồn sáng thiêng liêng, cao quý đó. Nguồn sáng rực rỡ có sức tỏa chiếu tuyệt diệu. Nó làm cho cuộc sống đẹp hơn, ngời sáng hơn. Đồng thời, nguồn sáng ấy làm cho cái thấp hèn, xấu xa phải hiện nguyên hình như nó vốn có. Đối lập với thứ ánh sáng rực rỡ đó là đêm tàn mà bè lũ đế quốc hiện lên một cách thảm hại. Nó chính là "loài dơi hốt hoảng" hỗn loạn bay trong đêm tàn, bóng tối không biết đâu là phương hướng. Qua hình ảnh thơ, Tố Hữu đã miêu tả đúng cái thần thái và vẻ đẹp tỏa rạng của vị Chủ tịch Hồ Chí Minh - linh hồn của cuộc kháng chiến.

Đối lập giữa hai mảng sáng - tối cũng nhằm để khẳng định sự tỏa sáng của chân lí:

ẨN DỤ TU TỪ TRONG THƠ TỐ HỮU - 10

Đảng của ta tinh hoa dân tộc

Phủ bụi mờ, hồng ngọc tươi nguyên Rồng muốn bay, trừ ngay rắn độc Hạnh phúc chung, xã hội người hiền

(Chào xuân 99)

Hình ảnh hồng ngọc là ẩn dụ chỉ vẻ đẹp sáng trong, tinh khiết và rạng ngời của Đảng. Từ một thứ vật chất đẹp, sáng, có màu đỏ hồng, có vẻ đẹp lung linh và vô cùng quý giá, nhà thơ đã xây dựng ẩn dụ về Đảng. Liên tưởng tương đồng giúp cho Tố Hữu tạo nên hình tượng thơ đẹp. Bụi mờ tươi nguyên xuất hiện trong trạng thái đối lập nhằm khẳng định vẻ đẹp của thứ ngọc quý giá, vẻ đẹp ngời sáng của Đảng. Báu vật quý giá đó không một tỳ vết, không cái gì làm cho nó biện dạng, mất màu được. Cách nói vừa mềm mỏng vừa rắn rỏi trên làm nên sức hấp dẫn của ý thơ. Hình ảnh rồng rắn độc là hai ẩn dụ trong thế đối lập giữa cái cao đẹp và cái thấp hèn, giữa thiên thần và ác quỷ…nhắc nhở mọi người phải đấu tranh để có cuộc sống hạnh phúc, để xã hội thực sự là xã hội người hiền. Kết hợp từ ngữ trong thế đối lập


nhằm đem tới cho người đọc những hứng thú tìm tòi và khám phá thế giới hiện hữu. Điều đó chứng tỏ nhà thơ phải là người am hiểu tường tận điều mình muốn diễn tả. Đồng thời, ông cũng rất sắc nhọn trong việc lựa chọn ngôn từ để thâu tóm được cái thần thái của sự vật, hiện tượng.

Ẩn dụ máu hoa cũng nằm trong thế đối lập triệt để. Máu là hình ảnh ẩn dụ chỉ những hi sinh, mất mát mà dân tộc ta phải gánh chịu trong chiến tranh: Máu đổ trên đồng ruộng, bờ kênh, máu đổ trên chiến trường, bên mâm pháo, máu đổ trên sân trường, sân ga, bến tàu…Máu tụ dồn thành suối, thành sông, thành bể đau thương.Một dòng máu đỏ lên trời trong Bà má Hậu Giang hay một dòng máu tươi trong Lượm. Hình ảnh ẩn dụ máu biểu tượng của đau thương chiến tranh đã gây hiệu ứng mạnh mẽ tới xúc cảm của con người. Cảm xúc ấy như được chảy ra từ trong huyết quản, từ vết thương của một trái tim đang rỉ máu. Không chỉ là cách diễn đạt sự hi sinh của người dân đất nước mà còn là sự tố cáo tội ác tày trời mà đế quốc đã gieo rắc trên đất nước ta. Đối lập với máu hoa - biểu tượng của chiến thắng, niềm vui và hạnh phúc ngọt ngào. Hai hình ảnh đối lập lại xuất hiện liền kề trong một thể thống nhất. Cái này là kết quả của cái kia, không thể khác trong hoàn cảnh "lửa cháy" của dân tộc:

Máu của anh chị, của chúng ta không uổng Sẽ xanh tươi đồng ruộng Việt Nam

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)


Và:


Tự do đã nở hoa hồng

Trong dòng máu đỏ, trên đồng Việt Nam

(Ba mươi năm đời ta có Đảng)


Khẳng định vẻ đẹp của dân tộc trong khói lửa chiến tranh, Tố Hữu có viết:


Ôi ! Đất anh hùng dễ mấy mươi

Chìm trong khói lửa vẫn xanh tươi Mưa bom bão đạn, lòng thanh thản Nhạt muối, vơi cơm, miệng vẫn cười

(Theo chân Bác)

Những cụm từ đối nhau về ý ở các ẩn dụ: khói lửa -xanh tươi, mưa bom bão đạn- lòng thanh thản, nhạt muối, vơi cơm - miệng vẫn cười. Qua thế đối lập ấy, tác giả muốn khẳng định vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt Nam. Dân tộc của những người con anh hùng, cháy sáng niềm lạc quan cách mạng. Họ có một phong thái ung dung, thanh thản đến lạ kì. Đó là tư thế đứng trên đầu thù, tư thế của người chiến thắng. Không đao to búa lớn, không hô hào khẩu hiệu, những ẩn dụ trên đã giúp Tố Hữu nói được một cách trọn vẹn và thấm thía vẻ đẹp của dân tộc mình. Tôn vinh, ngợi ca để khẳng định tư thế của dân tộc Việt Nam trong thời đại vả nhân loại. Trong thơ Tố Hữu còn nhiều ẩn dụ được xây dựng trong thế đối lập như thế. Chỉ xin nêu một vài dẫn chứng để làm căn cứ khẳng định cách kết hợp ngôn từ trong phép ẩn dụ đã tạo nên sắc thái biểu cảm.

Nguyên nhân thứ hai làm nảy sinh tính biểu cảm của phép ẩn dụ trong thơ Tố Hữu là việc hình thành thế bổ sung về nghĩa giữa các đơn vị ngôn từ thuộc cùng một phạm trù. Chẳng hạn: thuyền - bể, xuân - trời hồng, huyết quản - máu, cạn máu - tàn hơi…trong các câu thơ góp phần biểu đạt ý tưởng của tác giả.

Hình ảnh mùa xuân với trời hồng có sự gắn kết về ý nghĩa trong câu thơ:

Xuân bước nhẹ trên nhành non lá mới Bạn đời ơi vui lắm cả trời hồng !

(Ý xuân)


Sự gắn kết ấy có tác dụng bổ sung cho nhau tạo nên trường liên tưởng rộng và sâu. Ẩn dụ nhân hóa xuân bước nhẹ cho thấy bước đi của mùa xuân nhẹ nhàng và thanh thoát, đẹp trẻ trung và tươi mới. Nó gợi những cảm xúc phơi phới, phấn chấn, lạc quan và yêu đời. Ẩn dụ trời hồng đã vượt ra ngoài nghĩa gốc vốn có của nó để chỉ tương lai xán lạn đang chờ con người trong niềm lạc quan vô bờ. Hai hình ảnh thơ cùng nằm trong trường liên tưởng về thiên nhiên, vũ trụ với cái đẹp, sức sống và niềm vui.

Những từ ngữ: dòng khe - tre lau, núi - vách đá, cây lá - ngàn sâu trong cách nói nhân hóa tài tình đã góp phần bổ trợ cho nhau trong việc thể hiện nội dung, ý tưởng. Thiên nhiên Việt Bắc - quê hương cách mạng năm xưa với cây rừng, hương núi, gió ngàn ùa về làm xốn xang lòng người. Hình ảnh thơ không chỉ gợi về không gian đất nước mà còn gợi những cảm xúc ấm áp, thân thương, tình cảm thủy chung trước sau trọn vẹn. Nhừng từ: hỏi - nghiêng đầu - nghe - hát mà tác giả gán cho vạn vật đã đem đến cho thế giới thiên nhiên vẻ đẹp đầy hấp dẫn. Nhà thơ trò chuyện với thiên nhiên và để thiên nhiên tự trò chuyện về một con người vĩ đại - linh hồn của kháng chiến. Tố Hữu đem đến cho thiên nhiên Việt Bắc một không khí sống động và tình tứ:

Hỏi dòng khe ấy, hỏi tre lau

Những tháng ngày xưa Bác ở đâu ? Núi vẫn nghiêng đầu nghe vách đá Hát cùng cây lá gió ngàn sâu

(Bác ơi !)

Tính biểu cảm của phép ẩn dụ tu từ đã góp phần cho thơ Tố Hữu có sức hấp dẫn đặc biệt. Nội dung tư tưởng tan chảy trong ngôn từ để tạo nên thế giới hình tượng đem tới những rung cảm sâu xa cho người đọc.

3.3. CHỨC NĂNG THẨM MỸ


Ẩn dụ tu từ là một trong những phương diện tạo nên tính thẩm mỹ văn chương nhờ tính đa nghĩa của hình tượng nghệ thuật. Ý nghĩa lớn nhất của


nghệ thuật là khám phá và diễn tả thế giới phức tạp, đa chiều, thẳm sâu trong mọi ngõ ngách vô hình của tâm hồn con người.

Bằng cách sử dụng những hình ảnh đẹp, bóng bẩy, đầy sức hấp dẫn và lôi cuốn, ẩn dụ tu từ đã đánh thức trong ta những cảm quan nghệ thuật hằng ấp ủ trong lòng. Cái đẹp của ẩn dụ được thể hiện trong vẻ đẹp của ngôn từ và cái đẹp của tư tưởng, tình cảm mà nhà thơ gửi gắm trong thế giới nghệ thuật. Cách nói bóng gió như xa như gần của ẩn dụ có sức mê hoặc lạ kỳ. Nó đưa người đọc đi từ ngỡ ngàng này đến lạ lẫm khác trong những cái tưởng chừng quen thuộc kia.

Thơ Tố Hữu đã đảm nhiệm chức năng nghệ thuật ấy một cách xuất sắc. Những trạng thái, những cung bậc tình cảm: nhớ mong, giận hờn, trách móc, tiếc thương, sung sướng, khổ đau…được thể hiện vừa trực tiếp vừa ngầm ẩn. Biện pháp ẩn dụ này giúp cho tác giả diễn tả được những điều thầm kín, thậm chí những điều khó nói nhất, khó diễn đạt nhất bằng những hình tượng nghệ thuật vừa khái quát vừa giàu chất thơ. Dường như nó đưa ta vào một thế giới với bao điều mới lạ, khác thường. Điều kì diệu của thơ ca là đánh thức trong ta những cảm quan nghệ thuật hằng ấp ủ và làm cháy sáng ngọn lửa thiêng sẵn có trong mỗĩ người. Phải nói tới sức mạnh ngôn từ mà ẩn dụ tu từ đem lại cho thơ ca.

Ẩn dụ bổ sung (còn gọi là ẩn dụ chuyển đổi cảm giác) đem lại cho thơ bao cảm xúc thẩm mỹ. Thính giác tinh nhạy với cái nghiêng tai kì diệu của người nghệ sĩ đã đem tới bao ngỡ ngàng cho người đọc:

Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức

(Tâm tư trong tù)

Nghe âm thanh cuộc đời ngưng kết trong "tiếng đời" là chuyện rất đỗi bình thường: tiếng chim reo, gió xối, tiếng lạc ngựa và tiếng guốc từ bên ngoài vọng tới. Thế nhưng,"nghe tiếng đời lăn náo nức" thì quả là bất thường, lạ lẫm. Cái điều tưởng trái quy luật ấy chính là cách nói đẹp của nhà thơ


nhằm thể hiện sự tinh tế trong cảm nhận. Âm thanh cuộc sống bên ngoài như đọng lại thành khối, thành hình và lăn chuyển rạo rực qua các giác quan luôn thức trực để đón nhận cuộc sống. Ở đây, mọi giác quan được mở ra tới vô cùng. Không chỉ là thính giác đơn thuần để nghe mà còn là thị giác để thấy, hơn nữa, phải kể đến cái giác quan tinh nhạy và huyền diệu nhất của con người là trái tim yêu thương, là tấm lòng rộng mở để cảm nhận được tiếng đời lăn náo nức. Sự chuyển đổi cảm giác cứ mở dần, mở dần từ cụ thể đến trừu tượng, từ cái dễ nắm bắt đến cái điều mơ hồ, khó nắm bắt mà chỉ có thể cảm nhận được mà thôi. Đó chính là điều thú vị trong việc khám phá vẻ đẹp của từ ngữ và ý thơ.

Ngoài ra, Tố Hữu còn có nhiều lần "nghe" thú vị như thế. Ví dụ: Tiếng rao sao ướt lạnh tê lòng (Một tiếng rao đêm), Nghe mênh mang sức khỏe của trăm loài (Tâm tư trong tù) hay Nằm bên em nghe má ấm trong tay (Sợ). Nghe âm thanh mà lại nhận biết bằng sự cảm nhận của các giác quan khác. Nghe mênh mang, nghe má ấm, nghe hồn …là cảm nhận bằng giác quan nào vậy? Có phải sự cảm nhận bằng xúc giác và cảm nhận bằng tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ? Âm thanh đo được là nhờ nghe thấy cường độ, trường độ và cao độ… Vậy mà, Tố Hữu lại nhận ra nó nhờ một vị giác giác nữa: Ngọt tiếng hò…(Có thể nào yên). Cái thứ có thể cảm nhận bằng mắt nhìn, tai nghe thì lại nhờ tới khứu giác thật lạ lẫm:

Đường thơm tho như mật bộng trưa hè

(Hy vọng)

Khi ta đã say mùi hương chân lí

(Như những con tàu)

Hương tự do thơm ngát cả ngàn ngày

(Tâm tư trong tù)

Hương tình nhân loại bay man mác

(Xuân nhân loại)


Như vậy, đường thơm tho, mùi hương chân lí, hương tự do, hương tình nhân loại đã đem tới những điều thú vị trong cảm nhận. Hấp dẫn bởi chính những liên tưởng khác trường ngữ nghĩa nhưng lại đáp ứng được xúc cảm thẩm mỹ của nhà thơ và độc giả. Tố Hữu muốn biến tất cả vạn vật quanh mình nhập hòa vào thế giới của ánh sáng và hương thơm. Vạn vật lên sắc và tỏa hương. Đó là thế giới của tình yêu và niềm tin với lý tưởng và tương lai tươi sáng của cuộc đời. Đó cũng là tâm hồn tinh nhạy và tài năng thơ ca bậc thầy của người nghệ sĩ.

Giữ vai trò đắc lực trong việc tạo nên hiệu quả thẩm mỹ cho thơ, không chỉ có ẩn dụ chuyển đổi cảm giác mà các loại ẩn dụ khác cũng góp mặt:

Ngày mai gió mới ngàn phương Sẽ đưa cô đến một vườn đầy xuân

(Tiếng hát sông Hương)

Hình ảnh gió mới ngàn phương vườn đầy xuân trong ẩn dụ hình tượng làm bừng sáng tứ thơ đem tới cho người đọc những rung cảm sâu sắc và thấm thía. Ẩn dụ gió mới ngàn phương chỉ những cơn gió mát lành của thời đại mới. Những cơn gió đủ sức tung hê cái chật chội, tù túng, hôi hám và nhơ nhớp của cuộc đời cũ. Đó là cơn gió của cuộc sống trong tương lai mà Tố Hữu đã đón nhận bằng cảm quan của nhà thơ cách mạng. Ông truyền cơn gió mát lành ấy đến cho quần chúng lao khổ, truyền cho họ niềm vui sống và hi vọng. Hình ảnh vườn đầy xuân cũng là một ẩn dụ chỉ vẻ đẹp căng tràn sức xuân, tỏa ngát hương sắc mùa xuân. Đó là biểu tượng của cuộc sống mới tốt đẹp mà cách mạng sẽ đem tới cho cô gái từng phải sống một đời ô nhục.

Cách nói nhân hóa với khả năng bày tỏ kín đáo tâm tư và nhằm cho đối tượng được miêu tả trở nên gần gũi cũng tạo cho thơ sức biểu đạt thẩm mỹ cao. Tâm hồn con người dịu lại trước những khoảnh khắc thơ mộng khó quên trong đời:

Xem tất cả 134 trang.

Ngày đăng: 26/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí