Các Yếu Tố Tác Động Tới Việc Xây Dựng Pháp Luật Về Chứng Khoán Hóa Các Khoản Nợ Xấu Của Ngân Hàng Thương Mại Ở Việt Nam

vay, đảm bảo tài chính của chứng khoán hóa, công khai, minh bạch thông tin trên thị trường chứng khoán.

Thứ tư, tăng cường hệ thống các định chế tài chính trong đó có các ngân hàng thương mại, tổ chức xếp hạng tín dụng, tổ chức trung gian chuyên trách thông qua việc ban hành kịp thời các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động của các định chế tài chính tham gia vào hoạt động chứng khoán hóa nợ xấu của ngân hàng thương mại. Có thể thấy, tại Mỹ và Hàn Quốc có các tổ chức trung gian chuyên trách hoạt động rất hiệu quả như Fannie Mae, Kamco. Các cơ quan này đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện quá trình chứng khoán hóa nợ xấu. Quy trình chứng khoán hóa có diễn ra theo đúng trình tự, đảm bảo chất lượng hay không phụ thuộc vào sự phối hợp của các định chế tài chính. Do vậy, việc sớm ban hành các quy định điều chỉnh hoạt động chứng khoán hóa nợ xấu của các định chế tài chính sẽ giúp thiết lập hệ thống định chế tài chính đồng bộ, chuyên trách để chứng khoán hóa được hiệu quả hơn. Hàn Quốc đã ban hành Đạo luật về cải tổ chức năng và nhiệm vụ của Công ty quản lý tài sản Hàn Quốc (KAMCO) nhằm tạo hành lang pháp lý đầy đủ, hỗ trợ, khuyến khích công ty chuyên trách thực hiện hoạt động chứng khoán hóa nợ xấu nhằm xử lý nợ xấu của các ngân hàng. Việc ban hành quy định cụ thể điều chỉnh về tổ chức trung gian chuyên trách đã tạo cơ sở pháp lý rõ ràng về cơ chế phối hợp, sử dụng nguồn lực và quyền hạn của các cơ quan chức năng và tổ chức tài chính, nhất là các ngân hàng yếu kém trong việc lựa chọn và thực thi các biện pháp cơ cấu lại và xử lý nợ xấu phù hợp nhằm đạt được mục tiêu đặt ra là nhanh chóng xử lý dứt điểm những vấn đề yếu kém, không gây ảnh hưởng xấu lan truyền trong hệ thống, cải thiện và phục hồi hoạt động của hệ thống tài chính, ngân hàng với chi phí thấp nhất.

Thực tế, khi áp dụng chứng khoán hóa vào xử lý nợ xấu của ngân hàng thương mại, các nước luôn cố gắng để tạo ra hành lang pháp lý đầy đủ. Tuy

nhiên, hành lang pháp lý đầy đủ chưa thể đảm bảo hoạt động chứng khoán hóa có thể thực hiện hiệu quả. Tại Hoa Kỳ, chứng khoán hóa được điều chỉnh bởi hệ thống pháp luật cụ thể từ quy trình hoạt động; quy định cơ cấu tổ chức, hoạt động, nghĩa vụ của các tổ chức trung gian chuyên trách, tổ chức đánh giá tín nhiệm, bảo lãnh phát hành; các chế tài xử lý vi phạm pháp luật. Khi xảy ra khủng hoảng thị trường bất động sản, hệ thống tài chính của nước này vẫn bị ảnh hưởng nặng nề. Trong khi đó, Hàn Quốc có đạo luật riêng biệt điều chỉnh cụ thể một trong các phương thức chứng khoán hóa nợ xấu. Ngoài ra, còn có các quy định chặt chẽ về tổ chức trung gian chuyên trách (KAMCO). Nhờ đó, Hàn Quốc đã thực hiện rất thành công chứng khoán nợ xấu. Đây là kinh nghiệm mà Việt Nam và các nước khác nên học hỏi để xây dựng hành lang pháp lý phù hợp. Việc ban hành khuôn khổ pháp lý sẽ tạo điều kiện, định hướng để chứng khoán hóa phát triển. Xây dựng một đạo luật riêng biệt để điều chỉnh chứng khoán hóa nên được cân nhắc ở Việt Nam. Đồng thời, đạo luật này nên có sự liên kết chặt chẽ với các quy định pháp luật khác để tạo sự đồng bộ trong hệ thống pháp luật [2]. Đạo luật ABS của Hàn Quốc có sự liên kết chặt chẽ với các luật khác như Bộ luật Dân sự Hàn Quốc, Luật về Thuế, Luật Nhà ở. Sự liên kết này sẽ giúp hướng dẫn, giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình chứng khoán hóa, giảm thiểu các rủi ro và tạo động lực phát triển cho chứng khoán hóa.

Trong quá trình chứng khoán hóa nợ xấu của ngân hàng thương mai, ngân hàng Nhà nước đóng vai trò quan trọng trọng việc chỉ đạo, kiểm tra, giám sát các ngân hàng thương mại thực hiện hoạt động chứng khoán hóa nợ xấu. Bên cạnh đó, ngân hàng Nhà nước tạo cơ chế và hỗ trợ chính sách cho các ngân hàng thương mại thực hiện chứng khoán hóa nợ xấu. Đồng thời, ngân hàng Nhà nước có trách nhiệm xây dựng một khuôn khổ pháp lý đủ mạnh để có thể điều tiết toàn bộ các hoạt động liên quan đến việc chứng

khoán hóa nợ xấu. Do đó, các kinh nghiệm xây dựng pháp luật về chứng khoán hóa các khoản nợ xấu của ngân hàng thương mại của Hàn Quốc và Mỹ cần được ngân hàng Nhà nước xem xét, nghiên cứu để ban hành văn bản quy phạm pháp luật cụ thể điều chỉnh hoạt động chứng khoán hóa nợ xấu của ngân hàng thương mại.


Kết luận chương 2

Chương 2 của luận văn đã làm rõ các nội dung chủ yếu của pháp luật về chứng khoán hóa các khoản nợ xấu của ngân hàng thương mại ở Hoa Kỳ và Hàn Quốc. Đối tượng chính của chứng khoán hóa các khoản nợ xấu của ngân hàng thương mại là các khoản nợ xấu của ngân hàng thương mại gồm các khoản vay được thế chấp bằng bất động sản; các khoản phải thu (khoản vay tiêu dùng); các khoản vay thương mại. Các chủ thể tham gia chứng khoán hóa gồm: tổ chức khởi tạo, tổ chức phát hành chứng khoán, cơ quan xếp hạng tín dụng, nhà đầu tư,… Mỗi giao dịch chứng khoán hóa có nhiều chủ thể tham gia và mỗi chủ thể đóng một vai trò nhất định nhằm đảm bảo hoạt động chứng khoán hóa được thực hiện đúng quy định. Các tổ chức, cá nhân đầu tư vào hoạt động chứng khoán hóa thường dễ gặp rủi ro hơn so với đầu tư vào chứng khoán thông thường do họ không hiểu rõ về các sản phẩm chứng khoán hóa mà họ mua và các tài sản bảo đảm của chứng khoán thường thiếu minh bạch.

Quá trình chứng khoán hóa thường được thực hiện thông qua 3 giai đoạn cụ thể: hình thành các khoản vay của tổ chức tín dụng; các tổ chức tín dụng bán các khoản nợ xấu cho SPV; SPV nhóm các khoản nợ thành trái phiếu và phát hành ra công chúng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.

Luận văn cũng đã nêu ra các quy định cụ thể trong văn bản pháp luật điều chỉnh chứng khoán hóa của Hoa Kỳ và Hàn Quốc như Đạo luật ABS, Đạo luật chứng khoán năm 1993, Đạo luật giao dịch chứng khoán năm 1934. Các quy định này điều chỉnh cụ thể về việc thành lập, hoạt động, nghĩa vụ của các chủ thể tham gia chứng khoán hóa. Bên cạnh đó, các hình thức và mức phạt đối với hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán hóa cũng được quy định rõ ràng, cụ thể.

Từ những phân tích về pháp luật về chứng khoán hóa của Hoa Kỳ, Hàn Quốc, luận văn đưa ra được một số bài học kinh nghiệm cho Việt Nam và định hướng để phát triển chứng khoán hóa nợ xấu tại Việt Nam trong thời gian tới như sau: xem xét tình hình nền kinh tế để áp dụng chứng khoán hóa linh hoạt, phù hợp với điều kiện kinh tế; tăng cường các định chế tài chính trong đó có các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, tổ chức trung gian chuyên trách; xây dựng khuôn khổ pháp lý thống nhất; đào tạo nguồn nhân lực có chuyên môn, kỹ thuật chứng khoán hóa, ứng dụng công nghệ thông tin để đẩy mạnh hoạt động chứng khoán hóa.

Xây dựng pháp luật về chứng khoán hóa các khoản nợ xấu của ngân hàng thương mại ở Việt Nam - 9

Chương 3

CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG XÂY DỰNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHỨNG KHOÁN HÓA CÁC KHOẢN NỢ XẤU CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI‌


Sự hạn chế của hệ thống pháp luật đã khiến cho chứng khoán hóa khó có cơ sở để thực hiện, đồng thời các ngân hàng thương mại không lựa chọn được phương pháp xử lý nợ xấu hiệu quả hơn. Hai phương án xử lý nợ xấu được sử dụng nhiều nhất hiện nay là các NHTM tự xử lý nợ xấu bằng các phương pháp nghiệp vụ (thu hồi nợ, giảm/giãn nợ, chuyển cho công ty quản lý tài sản thuộc ngân hàng đó…) và bán nợ cho VAMC. Tuy nhiên, hai giải pháp này chưa đạt được hiệu quả cao. Một số tổ chức tín dụng đã áp dụng chứng khoán hóa vào giải quyết nợ xấu như trường hợp của Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn - Hà Nội. Ngân hàng đã phối hợp với DATC (Debt and Asset Trading Corporation-Công ty trách nhiệm hữu hạn mua bán nợ Việt Nam) chuyển hóa khoản nợ xấu, nợ quá hạn của Công ty cổ phần Thủy sản Bình An thành cổ phần. Nhờ vậy, công ty này đã được tái cấu trúc, được quản trị, điều hành bởi Ngân hàng SHB và DATC. Ngân hàng đang là chủ nợ thành cổ đông lớn, cổ đông nắm đa số cổ phần nếu nhận thấy sau tái cấu trúc doanh nghiệp có khả năng tồn tại và phát triển [35]. Chứng khoán hóa nợ xấu là công cụ mới trong thị trường chứng khoán nợ xấu ở Việt Nam nên cần phải có các văn bản hướng dẫn từ các cơ quan quản lý Nhà nước. Nếu hệ thống pháp luật Việt Nam sớm có khuôn khổ pháp lý hoàn thiện thì sẽ thúc đẩy hoạt động chứng khoán hóa phát triển, giải quyết kịp thời tình hình nợ xấu của các ngân hàng thương mại.

3.1. Các yếu tố tác động tới việc xây dựng pháp luật về chứng khoán hóa các khoản nợ xấu của ngân hàng thương mại ở Việt Nam

Ở Việt Nam, chưa có các văn bản quy phạm pháp luật quy định cụ thể

về hoạt động chứng khoán hóa. Mặc dù, trong các nghị quyết về xử lý nợ xấu đã đề ra nhu cầu áp dụng chứng khoán hóa và yêu cầu cần phải có hành lang pháp lý để tạo điều kiện phát triển chứng khoán hóa. Việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh chứng khoán hóa vẫn chỉ ở giai đoạn nghiên cứu, xem xét. Các yếu tố tác động tới việc xây dựng pháp luật về chứng khoán hóa cần được xem xét cụ thể.

Trước hết, sự phát triển của thị trường tài chính (trong đó có thị trường chứng khoán), thị trường bất động sản có tác động đáng kể tới việc xây dựng pháp luật. Pháp luật về chứng khoán hóa không chỉ bị tác động bởi thị trường chứng khoán mà còn chịu tác động bởi thị trường bất động sản. Do, đối tượng chứng khoán hóa chủ yếu là khoản nợ xấu được bảo đảm bằng bất động sản. Khoản nợ xấu này phù hợp để tạo ra các sản phẩm tài chính chứng khoán hóa. Các khoản vay nhà ở thường có tỷ lệ rủi ro thấp và dễ nhận ra nguy cơ vỡ nợ. Việc đăng ký chuyển quyền sở hữu và có sự hỗ trợ của trung gian tài chính để mua nhà, tạo hệ thống đăng ký quyền sử dụng đất chưa được hiệu quả. Chính vì thế, người đi vay thường gặp khó khăn trong việc bảo đảm khoản vay bởi bất động sản. Hơn nữa, việc đánh giá rủi ro tín dụng, nói cách khác là việc ghi nhận thu nhập của người đi vay còn gặp nhiều khó khăn. Các ngân hàng đôi khi sẽ vẫn cho vay, tuy nhiên rủi ro mất khả năng thanh toán là khá lớn. Tại Việt Nam, khoản vay lớn thường được bảo đảm bởi sổ đỏ - chứng từ ghi nhận quyền sở hữu bất động sản. Chứng từ này sẽ được dùng làm tài sản thế chấp cho khoản vay để có thể mua nhiều bất động sản hơn. Tuy nhiên, đối với những người đi vay chưa có tài sản là bất động sản thì sẽ khó khăn hơn trong việc đi vay. Trong một số trường hợp, người đi vay chưa sở hữu nhà ở và khó khăn về mặt tài chính có thể được cung cấp (cho mượn) chứng từ ghi nhận quyền sở hữu bất động sản từ các mối quan hệ như người thân, bạn bè. Điều này mang lại nhiều rủi ro cho không chỉ người đi vay mà với cả người cung

cấp chứng từ. Một khía cạnh khác cần được xem xét là các nhà đầu tư phát triển bất động sản vay vốn ngân hàng để phát triển nhà ở. Đây là những khoản vay lớn được bảo đảm bởi bất động sản để nhà đầu tư tiến hành các dự án xây dựng bất động sản của mình. Việc có thanh toán được khoản vay hay không phụ thuộc nhiều vào vấn đề nhà đầu tư có bán được dự án không. Một thỏa thuận hợp đồng 3 bên giữa ngân hàng, người đầu tư và người mua tiềm năng được thiết lập cùng với việc giải ngân của các quỹ khi dự án được hoàn thành. Loại hình cho vay này cũng đã ít đi do thị trường bất động sản có nhiều biến động về giá và nhu cầu mua nhà ở của người dân trở nên bão hòa. Những hạn chế về pháp lý trong cho vay mua nhà tạo ra rào cản khiến cho hoạt động chứng khoán hóa vẫn khó có thể áp dụng đối với các khoản vay được bảo đảm bằng bất động sản.

Trong thị trường tài chính còn có nhiều loại tài sản tài chính khác có thể được chứng khoán hóa như các khoản phải thu thẻ tín dụng, các khoản vay tự động. Tại Mỹ và Hàn Quốc, cho vay tiêu dùng (ví dụ: thẻ tín dụng ghi nợ) khá phổ biến và là sản phẩm của chứng khoán hóa. Đối với Việt Nam, thẻ tín dụng được sử dụng chủ yếu cho các giao dịch quốc tế và lượng người sử dụng loại giao dịch này không nhiều. Phần lớn người dân vẫn sử dụng tiền mặt cho các thanh toán và khoản vay cho tiêu dùng được giao dịch trực tiếp bằng tiền mặt. Để có thẻ tín dụng, người vay cần phải cung cấp chứng từ ghi nhận thu nhập hàng tháng, tài sản thế chấp bằng tiền mặt với ngân hàng. Cho vay tiêu dùng ở Việt Nam vẫn đang trong quá trình phát triển. Trong thời gian tới, cho vay tiêu dùng có thể trở thành tài sản tài chính là sản phẩm chủ yếu cho chứng khoán hóa. Ngoài ra, các tài sản của doanh nghiệp nhà nước và hạ tầng kỹ thuật (ví dụ: đường cao tốc thu phí) cũng có thể xem xét trở thành sản phẩm chứng khoán hóa. Các dự án hạ tầng kỹ thuật như đường cao tốc ở Việt Nam thường được thực hiện dựa trên vốn vay nước ngoài thông qua Chính

phủ, ít có sự tham gia của tư nhân. Do đó, ít có khả năng được chứng khoán hóa khi xảy ra nợ xấu. Việc xây dựng pháp luật chứng khoán hóa cần phải có quy định rõ ràng đối với từng loại tài sản.

Một yếu tố khác tác động đến việc xây dựng pháp luật về chứng khoán hóa là thị trường vốn. Chứng khoán hóa cần có thị trường vốn phát triển đủ tốt để đảm bảo cho các rủi ro được tạo ra bởi các sản phẩm chứng khoán hóa. Thị trường vốn ở Việt Nam còn rất nhiều hạn chế. Các giao dịch cổ phiếu chủ yếu là các doanh nghiệp sở hữu bởi Nhà nước hoặc một phần bởi Nhà nước. Tính thanh khoản và mức độ công bố thông tin còn rất thấp. Mặt khác, chứng khoán hóa được coi như một phương thức tái cơ cấu, cung cấp tính thanh khoản cho thị trường vốn nhưng lại không thể thực hiện vai trò của mình.

Ngoài ra, chính sách tài chính của Nhà nước cũng tác động đến pháp luật chứng khoán hóa. Chứng khoán hóa là nhu cầu tất yếu của các ngân hàng thương mại để xử lý vấn đề nợ xấu. Khi Chính phủ ban hành các chính sách về hỗ trợ, phát triển hoạt động chứng khoán hóa, khuôn khổ pháp lý sẽ có cơ sở, định hướng để thiết lập các quy định cụ thể. Từ đó, các ngân hàng nhà nước cũng như các chủ thể có liên quan sẽ dễ dàng hơn trong việc thực hiện chứng khoán hóa nợ xấu. Các chính sách sẽ đóng vai trò dẫn dắt, định hướng không chỉ ở giai đoạn khởi đầu mà cả trong những giai đoạn tiếp sau đó. Hơn nữa, các hoạt động của ngân hàng thương mại và thị trường chứng khoán đều phải tuân theo các thông lệ quốc tế (như tiêu chuẩn Basel II, Basell IV). Các thông lệ quốc tế cũng là cơ sở để xây dựng pháp luật về chứng khoán hóa nợ xấu, nhằm nâng cao tính tiêu chuẩn hóa, phù hợp với thông lệ quốc tế. Hoạt động chứng khoán hóa nợ xấu không chỉ hướng tới thu hút các nhà đầu tư trong nước mà cả các nhà đầu tư nước ngoài tham gia. Các quy định phù hợp với thông lệ quốc tế sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường chứng khoán hóa được thuận lợi hơn.

Xem tất cả 107 trang.

Ngày đăng: 12/12/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí