và thị trường chứng khoán. Việc thiếu định hướng chiến lược phát triển chung cho thị trường này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của thị trường chứng khoán vì thị trường chứng khoán là một thể chế tài chính có sự gắn bó rất chặt chẽ và nhạy cảm với các thị trường còn lại theo cơ chế "bình thông nhau".
Hơn nữa, thực trạng thị trường tài chính nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng cho thấy hoạt động tài chính còn yếu kém, chưa có sự gắn kết giữa hoạt động ngân hàng và chứng khoán. Thị trường chứng khoán tuy là một bộ phận của thị trường tài chính nhưng được xây dựng và phát triển một cách thiếu riêng rẽ, thiếu việc điều tiết thống nhất ví dụ việc ngân hàng huy động vốn với lãi suất cao trong thời gian qua là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc người dân gửi tiền vào ngân hàng mà không đầu tư vào chứng khoán.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp nhỏ của Việt Nam đã và đang chứng tỏ được tiềm năng và khả năng phát triển của mình. Trong giai đoạn sắp tới nhu cầu vốn đầu tư để mở rộng và phát triển sản xuất của các doanh nghiệp này là rất lớn. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng trong khi đó họ chưa đủ điều kiện tham gia huy động vốn trực tiếp trên thị trường chứng khoán.
Trên thực tế, việc phát hành và giao dịch chứng khoán trên thị trường chứng khoán tập trung hiện nay chỉ có các công ty vốn lớn mới được phát hành và niêm yết nhưng chưa hẳn chúng đã là các công ty thuộc lĩnh vực mà công chúng quan tâm và muốn đầu tư. Cụ thể là một công ty để đủ điều kiện niêm yết trên SGDCK ngoài điều kiện về vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký niêm yết từ 80 tỷ đồng Việt Nam trở lên, còn phải đáp ứng rất nhiều điều kiện khác [7, Điều 8]. Lĩnh vực ngân hàng được công chúng quan tâm thì hiện tại chỉ có Ngân hàng Á Châu (ACB) và Ngân hàng Sacombank (STB) niêm yết trên thị trường tập trung.
Đồng thời với cơ chế duy nhất là giao dịch khớp lệnh và thỏa thuận lô lớn như hiện nay rõ ràng thị trường chưa thỏa mãn được yêu cầu đa dạng của công chúng. Ở thị trường tập trung, để thực hiện giao dịch thỏa thuận phải có số lượng từ 20.000 cổ phiếu trở lên trong khi đó ở thị trường CKCNY thì NĐT có thể thỏa thuận giao dịch với số lượng thấp hơn.
Quan phân tích những bất cập nêu trên liên quan đến hệ thống thị trường chứng khoán Việt Nam, rõ ràng là hệ thống thị trường này cần phải sớm được hoàn thiện nhiều mặt và đặc biệt là việc xây dựng một thị trường có tính linh hoạt cao dành cho các loại chứng khoán có tiêu chuẩn niêm yết thấp là một yêu cầu cấp bách hiện nay.
Thiết nghĩ, việc hình thành thị trường OTC có tổ chức hiện nay đang là xu hướng phổ biến của hầu hết các thị trường chứng khoán thế giới vì thị trường này có những ưu thế riêng. Với những đặc điểm đa dạng, linh hoạt trong hình thức giao dịch, mô hình OTC có thể hoàn thiện được hệ thống thị trường chứng khoán Việt Nam thông qua việc áp dụng các nhân tố mới của thị trường như phương thức định giá thỏa thuận, hệ thống các nhà tạo lập thị trường… tạo điều kiện đa dạng hóa thị trường, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người đầu tư, đồng thời đảm bảo phát triển thị trường Việt Nam theo xu hướng chung của thế giới.
Như vậy, sự cần thiết của việc thành lập thị trường OTC ở Việt Nam bởi các lý do sau:
Một là, trong điều kiện nước ta có hệ thống chính trị và nền kinh tế vĩ mô ổn định, sau nhiều năm đổi mới, với những kết quả đạt được nhân dân cũng như các nhà đầu tư trong và ngoài nước ngày càng yên tâm khi bỏ vốn đầu tư. Bên cạnh đó, nền kinh tế tăng trưởng với mức độ cao, ổn định, lạm phát được kiềm chế, giá trị đồng nội tệ và mức lãi suất ổn định trong thời gian dài, thu nhập và mức sống của mọi tầng lớp dân cư được cải thiện rõ rệt.
Đây là môi trường kinh tế vĩ mô hết sức thuận lợi cho việc phát triển thị trường OTC ở Việt Nam.
Có thể bạn quan tâm!
- Phân Biệt Thị Trường Chứng Khoán Chưa Niêm Yết Và Các Thị Trường Khác
- Rủi Ro Đầu Tư Trên Thị Trường Chứng Khoán Chưa Niêm Yết
- Nhà Môi Giới Cổ Phiếu Chưa Niêm Yết
- Bất Cập Trong Xây Dựng Thị Trường Có Tổ Chức
- Pháp luật về quản lý giao dịch chứng khoán chưa niêm yết ở Việt Nam - 8
- Lộ Trình Xây Dựng Và Hoàn Thiện Khung Pháp Lý Về Thị Trường Otc
Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.
Hai là, Đảng và Nhà nước ta có quyết tâm rất cao trong việc cổ phần hóa các DNNN nói riêng và thực hiện chính sách cổ phần hóa nói chung. Rất nhiều doanh nghiệp trong số đó đã làm ăn có lãi và thực sư mong muốn tham gia và thị trường chứng khoán.
Ba là, chính sách đa dạng hóa các hình thức sở hữu và các thành phần kinh tế của Đảng và Nhà nước ta đã và đang giải phóng mọi năng lực sản xuất, kinh doanh, huy động mọi nguồn vốn cho phát triển sản xuất. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng phát triển mạnh mẽ, đóng góp không nhỏ vào kết quả tăng trưởng GDP. Các doanh nghiệp này có nhu cầu về huy động vốn rất lớn đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao. Huy động được nguồn vốn trên thị trường chứng khoán là một giải pháp hiệu quả đối với các doanh nghiệp này.
Bốn là, nhiều văn bản pháp luật đã được bổ sung và hoàn thiện như Luật Doanh nghiệp, Bộ luật Dân sự và hàng loạt các văn bản dưới luật khác tạo ra một khung pháp lý thông suốt cho hoạt động của cả nền kinh tế nói chung và hoạt động của thị trường chứng khoán nói riêng. Bên cạnh đó được sự quan tâm đúng mức, hệ thống kiểm toán đã được hình thành và ngày càng phát triển. Đó là những điều kiện thuận lợi cho việc ra đời một thị trường mới.
Năm là, sau một thời gian thử nghiệm hoạt động thị trường chứng khoán tại Thành phố Hồ Chí Minh đã thu đuợc một số kết quả nhất định. Gần đây Chính phủ đã thể hiện quyết tâm xây dựng thị trường OTC bằng việc ban hành Quyết định 163/2003/QĐ-Ttg ngày 5/8/2003 thông qua chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2010 trong đó đặt mục tiêu xây dựng thị trường OTC tại Hà Nội.
Sáu là, kinh nghiệm tổ chức và quản lý thị trường của cơ quan quản lý. Việc tổ chức thị trường cũng có những điều kiện thuận lợi nhất định khi hoạt động của thị trường tập trung đã trở thành tiền lệ cho hoạt động của thị trường OTC. Các nhà tổ chức và quản lý thị trường cũng đã bước đầu rút kinh nghiệm từ việc tổ chức quản lý thị trường tập trung. Mặt khác, thị trường này rất phát triển trên thế giới trong vài thập niên trở lại đây sẽ là cơ sở thực tiễn thuận lợi cho việc phát triển thị trường này ở Việt Nam.
Bảy là, hoạt động của các tổ chức trung gian, trong thời gian qua, các công ty chứng khoán đã có thời gian hoạt động thực tiễn, đã bắt đầu có kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh chứng khoán. Nhiều công ty đang đầu tư mạnh để phát triển đội ngũ nhân lực, mở rộng tầm hoạt động đến nhiều địa phương trong cả nước, đủ khả năng và sẵn sàng tham gia vào một thị trường mới.
Tám là, thuận lợi từ phía nhà đầu tư. Qua một thời gian thị trường tập trung đi vào hoạt động, công chúng đầu tư đã bước đầu làm quen với hình thức đầu tư chứng khoán, mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Chắc chắn người đầu tư sẽ mong đợi thị trường có những hàng hóa đa đạng, phong phú hơn, có những hình thức giao dịch thuận tiện, linh hoạt hơn.
Chính vì lẽ đó mà sự kiện đáng chú ý là trong quý III/2008 này, sàn giao dịch cổ phiếu công ty đại chúng chưa niêm yết sẽ chính thức vận hành tại TTGDCK Hà Nội (HaSTC) đã là cơ hội tốt cho NĐT và doanh nghiệp.
Với 40 doanh nghiệp dự kiến được mời tham gia đợt đầu, hiện mới có 11 doanh nghiệp đăng ký, đa phần là các CTCK, ngân hàng, tài chính, bảo hiểm. Con số tuy ít ỏi nhưng cũng là một cố gắng rất lớn của các cơ quan quản lý, cũng như thể hiện sự đổi mới về nhận thức của một số lãnh đạo doanh nghiệp. Bởi thực tế ở nước ta thời gian qua cho thấy, việc đưa quản trị công ty đại chúng vào khuôn khổ pháp luật dù được xem là rất cần thiết và
đáng ra phải làm từ lâu nhưng đã bị lỡ hẹn rất nhiều lần mà một trong những nguyên nhân quan trọng là do chính các công ty đại chúng sợ phải công bố, minh bạch thông tin.
Và từ tháng 2.2008, HaSTC đã thử nghiệm nội bộ, đến tháng 4/2008 thực hiện giao dịch thử từ xa với Trung tâm Lưu ký chứng khoán và 69 công ty chứng khoán (CTCK) để kiểm tra về chất lượng hệ thống. Điều này thực sự là cần thiết.
2.2. NHỮNG BẤT CẬP PHÁT SINH TRONG GIAO DỊCH VÀ QUẢN LÝ GIAO DỊCH TRONG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN CHƯA NIÊM YẾT VÀ HƯỚNG ĐIỀU CHỈNH PHÁP LUẬT
2.2.1. Bất cập đảm bảo quyền tiếp cận thông tin
Chứng khoán là một loại hàng hóa đặc biệt, khác với hàng hóa thông thường là người mua có thể đánh giá, kiểm tra ngay được giá trị sử dụng chất lượng của hàng hóa khi mua thông qua việc có ngay sản phẩm để kiểm tra chất lượng, còn đối với hàng hóa là chứng khoán nhất là cổ phiếu, muốn đánh giá được chất lượng của nó nhà đầu tư phải có đủ lượng thông tin cần thiết, chính xác và đặc biệt phải có khả năng phân tích, xử lý thông tin qua những phương pháp chuyên nghiệp.
Theo qui định của Luật Chứng khoán năm 2006 thì đối tượng công bố thông tin tại Điều 100, việc qui định tất cả các công ty đại chúng đều phải thực hiện công khai hóa thông tin sẽ tạo nên sự công bằng nhằm tăng cường tính công khai, minh bạch của nền kinh tế, bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư.
Để tiếp cận được các thông tin trên thì nhà đầu tư có thể thu thập thông tin từ các nguồn như:
Thông tin từ báo cáo tài chính của công ty phát hành. Theo qui định của Nghị định 105/NĐ-CP ngày 30/03/2004 về kiểm toán độc lập, trừ một số
loại hình doanh nghiệp phải thực hiện kiểm toán bắt buộc như ngân hàng, bảo hiểm, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, DNNN thì những doanh nghiệp còn lại chủ yếu là các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở Luật Doanh nghiệp thì nhà nước chỉ khuyến khích các doanh nghiệp thực hiện kiểm toán các báo cáo tài chính.
Như vậy, nhìn chung các CTCP chưa niêm yết không có báo cáo tài chính được kiểm toán. Thực tế, để có được một bản báo cáo tài chính của doanh nghiệp đối với một người bình thường là điều không hề đơn giản, và do đó việc thu thập thông tin từ bản thân doanh nghiệp qua con đường chính thức là điều không hề đơn giản.
Thu thập thông tin qua các cơ quan chức năng. Theo qui định doanh nghiệp phải báo cáo tình hình hoạt động cho cơ quan đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, việc tuân thủ qui định này của các doanh nghiệp không thực sự nghiêm túc [18]. Hơn nữa, nếu có nộp báo cáo cho cơ quan chức năng thì các thông tin cũng rất chung chung. Nhưng các cơ quan chức năng không có trách nhiệm và nghĩa vụ công bố các thông tin của doanh nghiệp. Vì vậy, việc có thông tin từ các cơ quan này gần như là nhiệm vụ bất khả thi đối với nhà đầu tư.
Ngoài ra, còn có một tổ chức lưu trữ thông tin về các doanh nghiệp đó là trung tâm thông tin tín dụng thuộc Ngân hàng Nhà nước. Trung tâm này lưu trữ các thông tin cơ bản của doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, tính cập nhật của các thông tin này không cao.
Thu thập thông tin thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Các thông tin về doanh nghiệp được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành, các trang web về kinh tế tài chính. Mặc dù, nguồn thông tin đa dạng, liên quan đến hoạt động của công ty, giá cổ phiếu nhưng có nhược điểm là thông tin được trích dẫn từ các nguồn khác, không logic và độ tin cậy không cao.
Ngoài ra, NĐT có thể thu thập thông tin thông qua các mối quan hệ sẵn có hoặc theo tin đồn.
NĐT mua cổ phiếu của một công ty không phải chỉ mua tài sản hữu hình của công ty mà là mua tiềm năng tạo ra lợi nhuận của công ty, đây là hàng hóa vô hình luôn chứa đựng nhiều rủi ro. Hàng hóa này được định giá thông qua những thông tin đánh giá tiềm năng tạo lợi nhuận, thông tin xác định những rủi ro có thể gặp phải và các thông tin liên quan khác.
Thực tế là NĐT phải bỏ ra một tài sản có thực là tiền để đổi lấy một tờ cam kết mà giá trị của nó phụ thuộc vào rất nhiều yết tổ rủi ro, có thể làm cho nó trở thành không có chút giá trị nào nhưng cũng có thể có giá trị rất lớn.
Khi gặp phải những rủi ro này, lợi ích của NĐT có thể bị xâm hại nghiêm trọng. Chính vì vậy, một thị trường vốn sẽ không thể phát triển hay sẽ không có NĐT trên thị trường nếu không được tạo ra những luật chơi, không có cơ chế quản lý, giám sát thanh tra, xử lý vi phạm có hiệu quả và phương tiện giảm thiểu những rủi ro kể trên, có thể làm giảm lòng tin của nhà đầu tư. NĐT chỉ có thể bỏ tiền vào thị trường khi mà họ thấy rằng họ đang tham gia vào một cuộc chơi công bằng, minh bạch mà lợi ích và họ xứng đáng được hưởng phải được đảm bảo.
Khi thị trường có nhiều rủi ro, lòng tin của nhà đầu tư bị suy giảm, nhà đầu tư sẽ trả giá thấp để mua cổ phiếu hoặc sẽ rất khó khăn để thuyết phục họ mua cổ phiếu, thậm chứ kể cả khi các tổ chức phát hành làm ăn có hiệu quả. Như vậy, dẫn đến chi phí huy động vốn của các tổ chức phát hành sẽ tăng. Các trường hợp tranh chấp, kiện tụng sẽ làm tăng chi phí hòa giải, xử lý va giải quyết hậu quả.
Thực tế diễn ra cho thấy, đi kèm với những gian lận, lừa đảo của thị trường chứng khoán có thể dẫn đến sự đổ vỡ lan truyền cho cả nền kinh tế nói chung chứ không bó hẹp trong phạm vi thị trường chứng khoán [25].
2.2.2. Bảo vệ quyền sở hữu của nhà đầu tư
Theo qui định tại khoản 1 Điều 16 của Luật Chứng khoán năm 2006 thì "Thị trường giao dịch chứng khoán là địa điểm hoặc hình thức trao đổi thông tin để tập hợp lệnh mua, bán và giao dịch chứng khoán". Có nghĩa là Luật Chứng khoán đã qui định mở rộng hình thức thị trường giao dịch chứng khoán, không chỉ giới hạn về mặt địa lý mà thừa nhận cả hình thức trao đổi thông tin để tập hợp lệnh mua, bán và giao dịch chứng khoán cũng là hình thức của thị trường giao dịch chứng khoán. Đây là một điểm mới quan trọng của Luật Chứng khoán, tạo cơ sở pháp lý cần thiết cho việc hình thành một thị trường giao dịch qua mạng (thị trường OTC) ở Việt Nam trong thời gian tới.
Quyền thực hiện các giao dịch mua, bán chứng khoán là một trong những quyền cơ bản của NĐT. Đó là một nội dung quan trọng của quyền sở hữu chứng khoán của NĐT. NĐT khi sở hữu một loại chứng khoán nào đó thì họ có toàn quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt và hưởng lợi do việc sở hữu chứng khoán mang lại.
Theo qui định của Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì "cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần đã được thanh toán đầu đủ và được ghi trong sổ cổ đông của công ty, trừ một số trường hợp bị hạn chế chuyển nhượng theo qui định của pháp luật và điều lệ của công ty" [13].
Hiện nay, Luật Chứng khoán năm 2006 điều chỉnh có hệ thống về các điều kiện giao dịch, về hoạt động tổ chức, quản lý điều hành việc mua bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán tập trung còn giao dịch CKCNY chưa được điều chỉnh bằng các qui định trong Luật Chứng khoán và văn bản pháp luật liên quan, hoạt động giao dịch diễn ra một cách tự do tùy thuộc vào người mua bán cổ phiếu và chủ thể phát hành.
Có công ty ủy thác cho một công ty chứng khoán quản lý sổ cổ đông hoặc việc chuyển nhượng thông qua công ty chứng khoán. Mục đích đến