Có thể thấy, pháp luật Hàn Quốc không đưa ra định nghĩa cụ thể mà liệt kê các tổ chức khởi tạo theo đạo luật ABS. Trong khi đó, người khởi tạo được định nghĩa khái quát theo pháp luật Hoa Kỳ. Như vậy, chỉ các tổ chức khởi tạo được liệt kê theo pháp luật Hàn Quốc mới có khả năng để hoạt động chứng khoán hóa theo đạo luật ABS. Các tổ chức này có đủ các điều kiện như là các tổ chức chính phủ và các tổ chức tài chính và là doanh nghiệp uy tín quốc tế (bao gồm các doanh nghiệp nước ngoài hoặc công ty con của tập đoàn nước ngoài) và nếu họ có xếp hạng tín dụng cao và Ủy ban giám sát tài chính yêu cầu chứng khoán hóa các tài sản của họ phải được thực hiện theo tiêu chuẩn được xác định trước bởi Ủy ban giám sát tài chính. Các tập đoàn cần có được sự công nhận của FSC về sự cần thiết phải chứng khoán hóa các tài sản do tập đoàn đó nắm giữ theo các tiêu chuẩn do FSC quy định [49]. Theo đạo luật số 15855 và đạo luật số 4341 của Hàn Quốc thì các tổ chức này sẽ có cấu trúc như một công ty có dấu hiệu mất khả năng thanh toán theo đạo luật thúc đẩy tái cấu trúc doanh nghiệp hoặc một tổ chức tài chính mất khả năng thanh toán theo đạo luật cải thiện cấu trúc của ngành tài chính.
Các tổ chức khởi tạo sẽ thực hiện chứng khoán hóa khi có các khoản nợ bị mất khả năng thanh toán. Tổ chức được coi là mất khả năng thanh toán nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
- Tổng tất cả các tài sản của tổ chức ít hơn tổng nợ phải trả;
- Tổ chức tạm ngừng thanh toán các khoản nợ hoặc không thể trả các khoản nợ nói chung;
- Có đơn yêu cầu mất khả năng thanh toán được nộp bởi, hoặc liên quan đến chủ tài sản ban đầu theo luật phá sản và khôi phục nợ [48].
Trong chứng khoán hóa, tổ chức khởi tạo đóng vai trò quan trọng, là cơ sở để thực hiện chứng khoán hóa. Khi tổ chức khởi tạo có các khoản nợ bị mất khả năng thanh toán, gây ảnh hưởng lớn tới hoạt động tín dụng và hệ
thống tài chính thì sẽ xuất hiện nhu cầu chứng khoán hóa. Nhờ đó, quá trình chứng khoán hóa bắt đầu được thực hiện.
2.1.2. Tổ chức phát hành chứng khoán hóa (Securitisation Special Purpose Entity-SSPE/ Securitisation Special Purpose Vehicle-SSPV)
SPE/SPV/SPC là một thực thể pháp lý (một công ty hợp danh hữu hạn, một công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty ủy thác), được thành lập để thực hiện các mục tiêu cụ thể, việc tạo ra các chứng khoán và bán chúng trên thị trường chứng khoán (do SSPE là bên phát hành). SSPE không có nhân sự, không có vị trí thực tế và không có mục đích bổ sung. Tổ chức này sau khi mua lại các khoản phải thu; các khoản nợ từ bên khởi tạo sẽ phát hành chứng khoán dựa trên cơ sở các tài sản đã mua. SPE/SPV thường không có bất kỳ chức năng nào khác ngoài chức năng phát hành chứng khoán và sở hữu tài sản làm cơ sở cho các chứng khoán này, điều này làm giảm các ưu đãi cho một bên khác đặt SPE vào tình trạng mất khả năng thanh toán.
Tổ chức phát hành chứng khoán hóa được quy định theo đạo luật ABS Hàn Quốc là một công ty được thành lập để thực hiện kinh doanh chứng khoán hóa được bảo đảm bằng tài sản. Công ty này sẽ ở dạng công ty trách nhiệm hữu hạn (yuhan-hoesa), không thể thành lập chi nhánh ngoài trụ sở chính và không được thuê nhân viên. Đạo luật ABS quy định vốn tối thiểu của một công ty SPE là 100 KRW. Các công ty này có thể quyết định quyền biểu quyết, cổ tức và tài sản còn lại theo nhiều cách khác nhau trong các điều khoản hợp nhất của họ, không phân biệt tỷ lệ góp vốn. SPE thường được sở hữu bởi các cá nhân (tổng ít nhất 99.5%) và nhà sáng lập (hầu hết ít hơn 0.5%) [48]. Công ty có mục đích đặc biệt sẽ đăng ký một kế hoạch ABS và chỉ có thể hoạt động kinh doanh theo kế hoạch ABS đã được đăng ký. SPV điển hình ở Hàn Quốc là Công ty quản lý tài sản Hàn Quốc (KAMCO). Đạo luật ABS đã quy định cụ thể các công việc kinh doanh theo kế hoạch chứng
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Niệm, Đặc Điểm, Vai Trò Của Chứng Khoán Hóa Các Khoản Nợ Xấu Của Ngân Hàng Thương Mại
- Điều Kiện Thực Hiện Chứng Khoán Hóa Các Khoản Nợ Xấu Của Ngân Hàng Thương Mại
- Tình Hình Nợ Xấu Của Các Ngân Hàng Trong Cuối Năm 2018 Và 6 Tháng Đầu Năm 2019
- Đối Tượng Của Chứng Khoán Hóa Các Khoản Nợ Xấu Của Ngân Hàng Thương Mại
- Vi Phạm Pháp Luật Và Xử Lý Vi Phạm Pháp Luật Trong Hoạt Động Chứng Khoán Hóa Các Khoản Nợ Xấu Của Ngân Hàng Thương Mại
- Các Yếu Tố Tác Động Tới Việc Xây Dựng Pháp Luật Về Chứng Khoán Hóa Các Khoản Nợ Xấu Của Ngân Hàng Thương Mại Ở Việt Nam
Xem toàn bộ 107 trang tài liệu này.
khoán hóa được bảo đảm bằng tài sản gồm: chuyển nhượng các tài sản chứng khoán hóa, hoặc ủy thác cho một tổ chức kinh doanh ủy thác; quản trị, quản lý và xử lý các tài sản chứng khoán hóa; phát hành và mua lại chứng khoán được bảo đảm bằng tài sản; đầu tư quỹ thặng dư và các hoạt động kinh doanh khác. Bên cạnh đó, các công ty này cũng không được phép mở văn phòng khác ngoài trụ sở chính và không được thuê nhân viên. Những quy định này đã hạn chế rất lớn hoạt động của SPV. Tuy nhiên, mục đích thành lập SPV là để thực hiện việc chứng khoán hóa các khoản nợ, góp phần xử lý nợ xấu. Do đó, việc hạn chế hoạt động của SPV là để tập trung vào các hoạt động chính và thực hiện mục đích đặc biệt.
Theo đạo luật ABS Hàn Quốc, một SPE sẽ được thành lập ở Hàn Quốc và được hưởng những lợi ích như: được phép chuyển nhượng các khoản thế chấp mà không phải đăng ký trong sổ đăng ký; được khấu trừ thuế thu nhập theo quy định tại Điều 51-2 của Luật thuế doanh nghiệp. Các khoản đóng góp sẽ được khấu trừ từ thu nhập chịu thuế của công ty. Đối với SPE được thành lập ngoài Hàn Quốc, các công ty này vẫn chịu những hạn chế về hoạt động kinh doanh như các SPE trong nước. Nếu như một SPC nước ngoài được cho phép thành lập một chi nhánh ở Hàn Quốc thì vẫn là một thực thể bị động và không được cho phép tham gia bất kỳ hoạt động kinh doanh khác ngoài những gì đã được liệt kê cụ thể trong đạo luật ABS. Vì mục đích lợi nhuận thuế, SPC nước ngoài thường thành lập ở Đảo Cayman [48].
Tại Mỹ, Hiệp hội thế chấp quốc gia liên bang- Fannie Mae (Federal National Mortage Association-FNMA) và Tổng công ty thế chấp cho vay mua nhà liên bang- Freddie Mac (Federal Home Loan Mortage Corporation- FHLMC) là hai tổ chức tài chính lớn nhất thực hiện vai trò là tổ chức trung gian chuyên trách (SPV) thực hiện nghiệp vụ chứng khoán hoá. Fannie Mae và Freddie Mac có nhiệm vụ mua các khoản nợ cho vay thế chấp nhà ở; bất
động sản của các NHTM, sau đó thực hiện chứng khoán hoá các khoản nợ này thành trái phiếu và phát hành trên cơ sở các khoản tín dụng thế chấp, có bảo đảm bằng nhà ở; bất động sản. Chứng khoán nợ được bán cho nhà đầu tư thông qua giao dịch trên thị trường chứng khoán. Các trái phiếu đó được bảo lãnh bởi duy nhất Fannie Mae và Freddie Mac và nghĩa vụ không trực tiếp của chính phủ Hoa Kỳ. Các sản phẩm của FNMA và FHLMC đều mang lại rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, qúa trình này không chỉ đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn cho các ngân hàng thương mại và cho thị trường tài chính và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong toàn bộ nền kinh tế [14]. Cuộc khủng hoảng tín dụng đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới Fannie Mae và Freddie Mac và các NHTM có liên quan cũng như toàn bộ hệ thống tài chính Mỹ và nền kinh tế Mỹ. Năm 2008, Fannie Mae và Freddie Mac có dấu hiệu bị thua lỗ. Họ bị chính phủ tịch thu các tài sản và vẫn còn hoạt động chứng khoán hóa cho đến nay.
Các SPV được thành lập ở Mỹ có thể được sở hữu bởi người khởi tạo chứng khoán hóa hoặc một SPV đơn độc với vốn chủ sở hữu của SPV (thường là số tiền danh nghĩa) được sở hữu bởi một thực thể hoặc tổ chức từ thiện không liên quan đến người khởi tạo và chủ sở hữu của vốn chủ sở hữu đó có ít hoặc không liên quan đến kinh tế trong chứng khoán hóa [43]. Việc thành lập SPV ở Mỹ hay ở nước ngoài tùy thuộc vào bản chất của giao dịch và thuế liên quan, luật chứng khoán và sự cân nhắc của nhà đầu tư. Trong khi SPV nước ngoài có thể cho phép các loại nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ chứng khoán của SPV rộng hơn so với SPV của Hoa Kỳ. SPV với các nhà đầu tư không phải là người Mỹ có thể bị hạn chế hơn trong các hoạt động mà họ có thể tham gia so với SPV chỉ có các nhà đầu tư Hoa Kỳ do thuế liên bang Hoa Kỳ.
2.1.3. Bảo lãnh phát hành (the Underwriter)
Bảo lãnh phát hành (thường là một hoặc một nhóm các ngân hàng đầu
tư) đóng vai trò trung gian giữa nhà phát hành (SSPE) và nhà đầu tư trong đợt chào bán. Tổ chức này sẽ cam kết mua toàn bộ chứng khoán phát hành ra theo giá đã xác định trước. Bên bảo lãnh phát hành phân tích yêu cầu của nhà đầu tư, phối hợp với cơ quan xếp hạng tín dụng – cung cấp hướng dẫn về cấu trúc giao dịch một cách hiệu quả và tiết kiệm chi phí, trong đó bao gồm việc tạo ra một hoặc nhiều lớp hoặc 'tranches' được bán cho các nhà đầu tư ở thị trường công cộng và tư nhân [51].
Đạo luật chứng khoán 1933 của Hoa Kỳ quy định thuật ngữ ''bảo lãnh'' là bất kỳ người nào đã mua từ nhà phát hành với quan điểm, hoặc cung cấp hoặc bán cho tổ chức phát hành liên quan đến việc phân phối bất kỳ chứng khoán nào, hoặc tham gia hoặc có sự tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào bất kỳ đảm nhận, hoặc tham gia hoặc có sự tham gia của bảo lãnh trực tiếp hoặc gián tiếp của bất kỳ cam kết nào; nhưng điều khoản đó sẽ không bao gồm một người có lãi được giới hạn trong một khoản hoa hồng từ một nhà bảo lãnh hoặc đại lý không vượt quá các nhà phân phối thông thường, hoặc hoa hồng của người bán. Bên cạnh đó, Luật công ty đầu tư 1940 của Hoa Kỳ cũng quy định khi việc phân phối chứng khoán của bất kỳ người nào là bảo lãnh phát hành được hoàn thành, người đó sẽ không còn là người bảo lãnh phát hành đối với chứng khoán đó hoặc tổ chức phát hành đó.
Các nhà bảo lãnh chứng khoán được bảo đảm bằng tài sản thực hiện vai trò của người sắp xếp truyền thống đại diện cho tổ chức phát hành (ở đây, SPV hoặc ủy thác). Công việc chính của bảo lãnh phát hành là phân tích nhu cầu của nhà đầu tư và thiết kế cấu trúc của các đợt chứng khoán dựa trên tài sản thế chấp hiện và điều kiện thị trường. Những người bảo lãnh trái phiếu được hỗ trợ bằng tài sản sẽ mua với giá chiết khấu một lượng nhất định của ưu đãi trước khi bán lại cho các nhà đầu tư. Ngoài việc tiếp thị và bán các chứng khoán này, các nhà bảo lãnh còn cung cấp hỗ trợ thanh khoản trong thị
trường giao dịch thứ cấp. Bởi vì giao dịch chứng khoán được hỗ trợ bằng tài sản tại các thị trường không cần kê khai, các nhà bảo lãnh sẵn sàng tham gia với tư cách là đại lý môi giới bằng cách duy trì hàng tồn kho và tạo ra một thị trường giúp tăng cường quá trình phát hành [51].
2.1.4. Cơ quan xếp hạng tín dụng (the Credit Rating Agencies)
Cơ quan xếp hạng tín dụng cung cấp xếp hạng tín dụng các chứng khoán dựa trên đánh giá rủi ro tín dụng của họ: đánh giá rủi ro tín dụng thấp thì xếp hạng sẽ cao và ngược lại. Các nhà đầu tư sẽ mua chứng khoán dựa theo mức độ đánh giá do các cơ quan xếp hạng tín nhiệm đưa ra. Nếu chứng khoán nhận được xếp hạng tốt hơn có thể thu hút các nhà đầu tư dễ dàng hơn so với chứng khoán được xếp hạng kém hơn và do đó, chịu lãi suất thấp hơn.
Cơ quan xếp hạng tín dụng được quy định tại Luật giao dịch chứng khoán 1934 của Hoa Kỳ là nghĩa là bất kỳ người nào tham gia vào việc kinh doanh phát hành xếp hạng tín dụng trên Internet hoặc thông qua người khác có thể truy cập dễ dàng có nghĩa là miễn phí hoặc phí hợp lý, nhưng không bao gồm công ty báo cáo tín dụng thương mại; sử dụng mô hình định lượng hoặc định tính hoặc cả hai để xác định xếp hạng tín dụng; và nhận phí từ nhà phát hành, nhà đầu tư hoặc người tham gia thị trường khác hoặc kết hợp giữa họ. Các cơ quan xếp hạng đã đóng một vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng nhanh chóng của tài chính có cấu trúc ở Hoa Kỳ [51]. Các cơ quan xếp hạng cung cấp dịch vụ chứng nhận cho các nhà đầu tư, những người cần thực hiện một cuộc điều tra chuyên sâu về các tài sản cơ bản và đánh giá cấu trúc của chứng khoán. Xếp hạng là cần thiết bởi vì nhiều nhà đầu tư tổ chức lớn và các công ty tài chính được quy định bắt buộc phải nắm giữ hầu hết các tài sản cấp đầu tư.
Ở hầu hết các quốc gia, có 03 cơ quan xếp hạng quốc tế đang cung cấp dịch vụ xếp hạng các khoản nợ được chứng khoán hóa đó là Moody’s,
Standard & Poor’s và Fitch. Các công ty này cùng nhau chi phối hoạt động xếp hạng chứng khoán hóa trên toàn cầu. Chứng khoán hóa nợ xấu là quá trình phức tạp do đó đòi hỏi yêu cầu về chuyên môn và kỹ năng cao đối với các cơ quan xếp hạng tín dụng. Điều này khó được đáp ứng bởi các các cơ quan xếp hạng tín dụng địa phương.
2.1.5. Tổ chức hỗ trợ thanh khoản (the Sponsor)
Tổ chức hỗ trợ thanh khoản là một tổ chức tài chính (thường là một ngân hàng thương mại) có nhiệm vụ thực hiện cam kết ứng tiền cho tổ chức phát hành để thanh toán cho người đầu tư trong trường hợp các khoản thanh toán, các khoản phải thu từ tổ chức có nghĩa vụ thanh toán chưa kịp được thanh toán [13, tr.22].
2.1.6. Người phục vụ (the Servicer)
Người phục vụ thực hiện một số nhiệm vụ hành chính thay mặt SSPE, là bên chịu trách nhiệm xử lý các khoản thanh toán và tương tác với người vay như gửi báo cáo thanh toán qua thư, thu tiền thanh toán và giám sát các khoản nợ để thu tiền thanh toán trên các tài sản mà SSPE có được. Bên cạnh đó, người phục vụ thực hiện các biện pháp thu nợ được quy định trong các thỏa thuận, đôi khi sẽ thực hiện thanh lý tài sản thế chấp trong trường hợp vỡ nợ. Vai trò này cũng có thể được thực hiện bởi người khởi tạo nếu người khởi tạo đồng thời là nhà phát hành [51].
Trong quá trình chứng khoán hóa, người phục vụ được ủy thác một số công việc đó là: 1) thu thập các khoản thanh toán được tạo từ các tài sản cơ bản, 2) chuyển các khoản thanh toán đến các tài khoản do người ủy thác quản lý và 3) quản lý tiền gửi và đầu tư của dòng doanh thu thay cho người được ủy thác. Các công việc chuyên biệt này yêu cầu người phục vụ giữ lại tất cả các thông tin cụ thể về khoản vay hoặc chứng khoán để thu thập và chuyển hướng dòng tiền cũng như theo dõi hiệu suất. Các công việc này dễ thực hiện
hơn đối với một thực thể liên quan đến người cho vay của thế chấp chứng khoán bảo đảm bằng tài sản.
Theo đạo luật ABS Hàn Quốc, người phục vụ phải đáp ứng một trong các điều kiện sau: một nhà khởi tạo; công ty thông tin tín dụng có giấy phép được thành lập theo Đạo luật liên quan đến việc sử dụng và bảo vệ thông tin tín dụng; những người khác chuyên kinh doanh quản lý tài sản đáp ứng các yêu cầu được quy định bởi Nghị định của Chính phủ về Đạo luật ABS. ABS SPC hoặc một SPC nước ngoài phải bổ nhiệm một người làm dịch vụ với tư cách là người phục vụ của họ (Dịch vụ phục vụ trực tuyến) và giao phó việc dịch vụ tài sản chứng khoán hóa. Trong trường hợp người phục vụ bị mất khả năng thanh toán, để bảo vệ lợi ích của những cổ đông của ABS thì đạo luật ABS yêu cầu người làm dịch vụ quản lý các tài sản chứng khoán hóa được giao riêng biệt với các tài sản của họ. Khi đó, do các tài sản chứng khoán hóa được quản lý riêng biệt bởi người làm dịch vụ không liên quan đến các tài sản của người làm dịch vụ, phương thức chứng khoán hóa có thể yêu cầu bởi người làm dịch vụ hoặc chấp nhận chứng khoán hóa như các tài sản chứng khoán hóa. Điều tương tự sẽ được áp dụng khi bắt đầu các thủ tục theo Luật hòa giải hoặc các thủ tục tổ chức lại theo Luật tổ chức lại doanh nghiệp [50].
2.1.7. Người nhận ủy thác (the Trustee)
Người nhận ủy thác được hiểu là người đảm bảo tiền được chuyển từ người phục vụ sang SSPE/SPV và các nhà đầu tư được thanh toán theo mức độ ưu tiên theo hợp đồng. Người nhận ủy thác là một công ty độc lập có trách nhiệm ủy thác quản lý SPV/ ủy thác và đại diện cho quyền của các nhà đầu tư. Vai trò chính của người ủy thác là phân tán các khoản thanh toán cho các nhà đầu tư và giám sát an ninh thay mặt cho các nhà đầu tư bằng cách thu thập thông tin từ người phục vụ và tổ chức phát hành trong khi xác nhận hiệu suất của tài sản thế chấp cơ bản. Các giao dịch của SPV mua các khoản vay thường