Quan Niệm Về Năng Lực Và Phát Triển Năng Lực Học Sinh Trong Môn Lịch Sử


giáo dục và quan hệ chặt chẽ hữu cơ với Khoa học Lịch sử. PPDHLS không phải là sự minh họa các nguyên tắc DH, mà là một bộ môn độc lập có đối tượng, chức năng, nhiệm vụ, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu riêng. PPDHLS lấy quá trình DHLS ở trường phổ thông làm đối tượng nghiên cứu, lấy việc giáo dục thế hệ trẻ qua môn học làm chức năng.

Trên cơ sở nghiên cứu những quan điểm trên, chúng tôi cho rằng, xét về nghĩa rộng, PPDHLS là một khoa học, thuộc lĩnh vực khoa học giáo dục, lấy quá trình dạy học bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông làm đối tượng nghiên cứu, lấy việc giáo dục thế hệ trẻ làm chức năng;có nhiệm vụ đề ra hình thức, hệ thống PPDH để hướng dẫn HS chiếm lĩnh kiến thức. Qua đó, thực hiện mục tiêu môn học.

Theo nghĩa hẹp, PPDHLS là cách thức, con đường, biện pháp sư phạm tổ chức các hoạt động dạy học của giáo viên, nhằm hướng dẫn HS chiếm lĩnh kiến thức lịch sử, phát triển năng lực tư duy, hành động, bồi dưỡng phẩm chất, nhân cách tốt đẹp cho HS. Qua đó, thực hiện mục tiêu của môn học. PPDHLS mang đầy đủ những đặc điểm của PPDH nói chung và có đặc trưng riêng. Vì vậy, trong quá trình DHLS, giáo viên phải vận dụng linh hoạt, sáng tạo các PPDH phù hợp với đặc điểm của kiến thức lịch sử cũng như khả năng nhận thức của HS để đem lại hiệu quả giờ học, thực hiện được mục tiêu của bộ môn.

2.1.2. Quan niệm về năng lực và phát triển năng lực học sinh trong môn Lịch sử

2.1.2.1. Quan niệm về năng lực

Có nhiều quan điểm tiếp cận và cách định nghĩa khác nhau về năng lực. Trong tiếng La tinh, năng lực xuất hiện ở hai hình thức: “competens”, có nghĩa là “có thể và được phép của pháp luật/quy tắc”; và “competentia”, được hiểu là “có khả năng và sự chấp nhận”. Trong tiếng Anh “competence” là có khả năng làm tốt một công việc nào đó, với những kĩ năng và hành động phù hợp.

Theo từ điển Tiếng Việt, năng lực “là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó; là phẩm chất tâm lí và sinh lí, tạo cho con người khả năng hoàn thành một hoạt động nào đó với chất lượng cao [101;836].

Trong lĩnh vực giáo dục, các nhà nghiên cứu cũng đưa ra các định nghĩa với nội hàm tương đương.Theo Trần Khánh Đức, năng lực là “khả năng tiếp nhận và vận dụng tổng hợp, có hiệu quả mọi tiềm năng của con người (tri thức, kĩ năng, thái độ, thể lực, niềm tin…) để thực hiện công việc hoặc đối phó với một tình huống, trạng thái nào đó trong cuộc sống và lao động nghề nghiệp”[45;6]. Thái Duy Tuyên cho rằng


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 225 trang tài liệu này.

“Năng lực là những đặc điểm tâm lí của nhân cách, là điều kiện chủ quan để thực hiện có kết quả một dạng hoạt động nhất định”[123;68].

Trong Chương trình Giáo dục phổ thông tổng thể (2018) định nghĩa: “Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất có sẵn và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác nhau như hứng thú, niềm tin, ý chí thực hiện thành công một hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể” [21;37].

Vận dụng phương pháp dạy học môn Lịch sử ở trường Trung học phổ thông nhằm phát triển năng lực học sinh Qua thực nghiệm chương trình lớp 10 - 7

Trên cơ sở nghiên cứu các cách tiếp cận, chúng tôi cho rằng: năng lực là khả năng làm việc đạt hiệu quả tốt trên cơ sở huy động kiến thức, kĩ năng và ý thức, tinh thần trách nhiệm cùng những kinh nghiệm đã có để thực hiện tốt một hoạt động nào đó trong những điều kiện cụ thể khác nhau. Năng lực không phải là một thuộc tính đơn nhất mà là một thuộc tính tâm lý phức hợp, là một tổng thể của nhiều yếu tố có liên hệ tác động qua lại, là điểm hội tụ của nhiều yếu tố như tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, vai trò, đạo đức… Nghĩa là năng lực không phải là cái có sẵn, tồn tại trong mỗi con người mà ban đầu chỉ có tư chất của năng lực, nhưng tư chất này được dần hình thành và phát triển, tích lũy trong quá trình học tập và lao động.

Năng lực khác với kĩ năng, bởi vì kĩ năng là “sự thực hiện có kết quả một công việc nào đó (lao động chân tay hay nhận thức) bằng cách vận dụng những tri thức, những kinh nghiệm đã có để hành động phù hợp với hoàn cảnh và những điều kiện cho phép” [7;28]. Kĩ năng chỉ là một yếu tố quan trọng trong tổ hợp nhiều yếu tố tạo nên năng lực (yếu tố cần nhưng chưa đủ). Bởi một năng lực là tổ hợp đo lường của các kiến thức, kĩ năng, thái độ mà một người cần vận dụng để thực hiện một nhiệm vụ nào đó trong học tập và trong cuộc sống.

2.1.2.2. Phát triển năng lực học sinh phổ thông trong môn Lịch sử

Theo Từ điển Tiếng Việt [100] “phát triển là sự biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp”; là khuynh hướng vận động đã xác định về hướng của sự vật từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Phát triển còn được hiểu theo nghĩa là cái mới ra đời thay thế cái cũ, cái tiến bộ ra đời thay thế cái lạc hậu. Hoặc phát triển được coi là sự lớn lên về mặt kích thước hay giá trị, tầm quan trọng của sự vật hay một vấn đề nào đó.

Trong Chương trình Giáo dục phổ thông tổng thể do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành năm 2018 định nghĩa, năng lực cốt lõi là những năng lực cơ bản, thiết yếu mà bất kì ai cũng cần phải có để sống, học tập và làm việc hiệu quả năng lực chuyên biệt trong từng môn học nhằm phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất học sinh [21;37].


Từ khái niệm phát triển, chúng tôi cho rằng phát triển năng lực HS trong môn Lịch sử là khả năng HS huy động kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái độ và ý thức trách nhiệm trong quá trình học tập bộ môn Lịch sử, để thực hiện thành công một nhiệm vụ học tập. Đồng thời, biết vận dụng kiến thức lịch sử đã học vào giải quyết nhiệm vụ học tập mới của bộ môn và những vấn đề đặt ra trong thực tiễn.

Đối với việc phát triển năng lực HS trong môn Lịch sử phải gắn liền với vai trò tổ chức, hướng dẫn, điều khiển của GV trong suốt quá trình dạy học. Sự phát triển năng lực học tập môn Lịch sử của HS trong DHLS được thể hiện theo hai khía cạnh: một là quá trình tăng dần và hoàn thiện về kiến thức, kỹ năng, thái độ và kinh nghiệm; hai là sự phát triển về mặt chất lượng của năng lực, trên cơ sở kiến thức, kĩ năng, thái độ HS sẽ được rèn luyện việc tự phát hiện vấn đề cần xử lý, giải quyết, thu thập thông tin cần thiết cho vấn đề trong học tập và trong cuộc sống, vận dụng kiến thức đã học giải quyết vấn đề thực tiễn đặt ra.

Tuy nhiên, để phát triển năng lực cho HS trong DHLS đòi hỏi phải có một quá trình lâu dài trong học tập, lao động, trải nghiệm, bản thân các em phải luôn tích cực khám phá, muốn phát hiện cái mới, giải quyết mâu thuẫn xung đột trong nhận thức, học tập và thực tiễn liên quan tới cuộc sống của HS. Điều đó diễn ra dưới sự hướng dẫn điều khiển thường xuyên của GV. Vậy nên, việc phát triển năng lực cho HS trong dạy học bộ môn Lịch sử ở trường THPT có vai trò đặc biệt quan trọng.

Vì vậy, chúng tôi cho rằng, để phát triển năng lực học sinh trong môn Lịch sử ở trường phổ thông gồm những biểu hiện sau:

Thứ nhất, năng lực của con người nói chung, của HS nói riêng chỉ hình thành và phát triển khi hội tụ đủ ba yếu tố cơ bản là kiến thức, kĩ năng và thái độ, giá trị, trách nhiệm bản thân để thực hiện thành công các nhiệm vụ học tập.

Thứ hai, phát triển năng lực học sinh được đặt trong một hoạt động cụ thể vì năng lực vừa là mục tiêu, là biểu hiện của hoạt động, vừa là kết quả hoạt động, nhưng cũng phát triển trong chính hoạt động đó. Vì vậy, để phát triển năng lực chuyên biệt của bộ môn Lịch sử cho HS, trong quá trình dạy học lịch sử, GV phải đưa học sinh tham gia vào các hoạt động cụ thể để khám phá chiếm lĩnh kiến thức lịch sử, qua đó phát triển kĩ năng và các năng lực bộ môn.

Thứ ba, bản chất của năng lực là khả năng của chủ thể trên cơ sở kết hợp một cách linh hoạt, có tổ chức hợp lí các kiến thức, kĩ năng với thái độ, giá trị, động cơ, nhằm đáp ứng những yêu cầu phức hợp của một hoạt động đạt kết quả tốt đẹp trong


một bối cảnh (tình huống) nhất định. Vì vậy, phát triển năng lực HS trong môn Lịch sử là quá trình lâu dài, trải qua nhiều cấp học và có liên quan chặt chẽ với nhau, đòi hỏi sự nỗ lực không ngừng của GV và HS trong môi trường giáo dục.

2.1.3. Quan niệm về vận dụng phương pháp dạy học lịch sử nhằm phát triển năng lực học sinh

Từ việc phân tích bản chất các khái niệm “PPDH”, “PPDHLS”, “Năng lực” và “Phát triển năng lực HS trong môn Lịch sử”, chúng tôi cho rằng Vận dụng PPDHL nhằm phát triển năng lực HS là quá trình GV lựa chọn, sử dụng và phối hợp linh hoạt các PPDH để hướng dẫn HS chiếm lĩnh kiến thức, phát triển kĩ năng, định hướng thái độ. Qua đó, phát triển năng lực, phẩm chất cho HS và thực hiện được mục tiêu dạy học.

Trong PPDH hướng tới phát triển năng lực người học, HS vừa là “đối tượng” của hoạt động “dạy”, đồng thời cũng là chủ thể của hoạt động “học”. Người học được trực tiếp tham gia vào các hoạt động học tập do GV tổ chức và điều khiển. Trên cơ sở đó, chủ động khám phá và chiếm lĩnh kiến thức mới, phát triển kĩ năng, năng lực và bồi dưỡng thái độ học tập đúng đắn. Từ đó, góp phần hình thành và phát triển năng lực chung cũng như năng lực chuyên biệt của bộ môn và trau dồi những phẩm chất, nhân cách tốt đẹp cho HS.

Như vậy, bản chất của việc vận dụng PPDH nhằm phát triển năng lực là dạy cho HS biết cách làm chủ kiến thức và vận dụng chúng một cách linh hoạt trong quá trình học tập cũng như cuộc sống. Hay nói cách khác, là dạy cho HS cách học chủ động, phù hợp với khả năng và sở trường của cá nhân HS - dạy HS cách “tìm ra chân lý”. Mục tiêu của PPDH nhằm phát triển năng lực HS không chỉ dừng ở việc HS nhận thức được hệ thống kiến thức cơ bản, toàn diện của khoa học lịch sử, mà quan trọng hơn là giúp các em biết chủ động vận dụng kiến thức đã học để chiếm lĩnh kiến thức mới, giải quyết được các vấn đề đặt ra trong học tập và thực tiễn cuộc sống.

Việc vận dụng các PPDH nhằm phát triển năng lực HS trong môn Lịch sử ở trường THPTđược biểu hiện qua những đặc trưng cơ bản sau:

Thứ nhất: bản chất của PPDH nhằm phát triển năng lực HS là dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học, tự nghiên cứu cho HS. Trong Chương trình Giáo dục phổ thông tổng thể (2018), tự chủ và tự học là cặp năng lực cốt lõi đầu tiên cần hình thành và phát triển cho HS ở trường phổ thông. Đối với bộ môn Lịch sử cũng phải nhằm đến mục tiêu đó. Do sự phát triển không ngừng của khoa học và công nghệ, lượng thông tin ngày một nhiều, GV cần hướng dẫn HS cách tự học hiệu quả. “Trong


phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn luyện cho người học có được những phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo ra lòng ham học, khơi dậy nỗ lực vốn có trong mỗi con người, kết quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội” [122;17]. Vì vâỵ, biểu hiện quan trọng đầu tiên của PPDH nhằm phát triển năng lực HS là sự chuyển biến từ học tập thụ động sang học tập chủ động trên cơ sở tự học hiệu quả của HS. Việc tự học được tiến hành không chỉ ở nhà, mà tại lớp học, với hình thức cá nhân, cặp đôi hay nhóm để phù hợp với khả năng, sở trường của HS.

Thứ hai: về thực chất, PPDH nhằm phát triển năng lực HS chính là PPDH tích cực dựa trên tính tích cực, chủ động, độc lập và sáng tạo của HS trong quá trình nhận thức. Với cách dạy học này “GV không còn đóng vai trò đơn thuần là truyền đạt kiến thức, GV trở thành người thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động học tập, hoặc theo nhóm nhỏ để HS tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt được mục tiêu kiến thức, kỹ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình” [122;18]. Để phát huy tính tích cực trong nhận thức của HS cần tăng cường phối hợp học tập cá nhân với học tập hợp tác theo phương châm “tạo điều kiện cho học sinh nghĩ nhiều hơn, làm nhiều hơn và thảo luận nhiều hơn”. Lớp học trở thành môi trường tương tác thầy - trò và trò - trò nhằm vận dụng sự hiểu biết và kinh nghiệm của từng cá nhân, của tập thể trong giải quyết các nhiệm vụ học tập chung.

Thứ ba: Việc vận dụng PPDH nhằm phát triển năng lực HS trong DHLS phải gắn liền với đa dạng hóa các hình thức tổ chức dạy học. Tuỳ theo mục tiêu dạy học, nội dung kiến thức, đối tượng nhận thức và điều kiện cụ thể của trường học, mà có những hình thức tổ chức dạy học thích hợp, như tiến hành giờ học nội khóa trên lớp kết hợp với giờ học nội khóa ở ngoài lớp học (tại bảo tàng, nhà truyền thống, di tích lịch sử …); hay tổ chức các hoạt động ngoại khóa và trải nghiệm gắn liền với nội dung kiến thức lịch sử trọng tâm. Đồng thời, tổ chức linh hoạt các hình thức hoạt động học tập như học tập cá nhân, cặp đôi hay học theo nhóm và cả tập thể lớp. Điều quan trọng là, dù dưới hình thức tổ chức DH nào cũng cần chuẩn bị tốt về kế hoạch dạy học, trong đó chú trọng các PPDH có ưu thế để HS biết sử dụng kiến thức lý thuyết vào thực hành và vận dụng để giải quyết các vấn đề trong thực tiễn. Qua đó, góp phần phát triển năng lực, phẩm chất HS và nâng cao hứng thú học tập cho người học.

Thứ tư: Để phát triển năng lực HS, trong quá trình DHLS ở trường THPT, GV cần chọn lựa và sử dụng một cách linh hoạt các PPDH phù hợp với nội dung bài học, khả năng nhận thức của HS cũng như điều kiện vật chất cho phép của địa phương. Tuy nhiên, khi sử dụng PPDH nào cũng phải đảm bảo được nguyên tắc: học sinh tự mình

43


được chủ động tham gia vào quá trình khám phá, chiếm lĩnh kiến thức, hoàn thành nhiệm vụ học tập với sự tổ chức, hướng dẫn, điều khiển của giáo viên. Trong quá trình DHLS ở trường THPT, GV có thể vận dụng nhiều PPDH khác nhau, trong đó PPDH nêu vấn đề, DH theo dự án, trao đổi đàm thoại, phương pháp học tập theo nhóm đặc biệt có ưu thế để phát triển năng lực HS. Đồng thời, trong quá trình DH, GV phải tổ chức liên tiếp các chuỗi hoạt động học tập, từ đó giúp học sinh tự khám phá những điều chưa biết, để chủ động chiếm lĩnh kiến thức, chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức có sẵn. Theo đó, giáo viên phải là người giữ vai trò tổ chức, hướng dẫn, điều khiển, giúp đỡ học sinh thực hiện các hoạt động học tập, từ việc tái hiện kiến thức cũ đến phát hiện, chiếm lĩnh kiến thức mới và vận dụng sáng tạo kiến thức vào thực tiễn. Bên cạnh đó, cần bồi dưỡng cho học sinh những tri thức về phương pháp để biết cách sử dụng sách giáo khoa, tài liệu học tập, biết sử dụng các thao tác của tư duy (phân tích, giải thích, so sánh, tổng hợp, đánh giá, suy luận) để tìm tòi và phát hiện kiến thức mới và vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Qua đó, dần hình thành và phát triển năng lực học tập bộ môn cho HS.

Thứ năm: Trong quá trình DH, cần sử dụng linh hoạt, đa dạng và hiệu quả các phương tiện và thiết bị dạy học theo đặc trưng của bộ môn, đảm bảo tăng cường nguyên tắc trực quan trong học tập. Tùy điều kiện cho phép của trường học tại địa phương mà GV có thể hướng dẫn HS khai thác tối đa các đồ dùng dạy học sẵn có và chủ động tự làm đồ dùng học tập cần thiết. Đồng thời, tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học để tăng tính hình ảnh, hiện đại và hấp dẫn của giờ học.

Thứ sáu: GV cần chú trọng đổi mới kiểm tra, đánh giá kết quả học tập HS theo định hướng phát triển năng lực. Mục tiêu kiểm tra không quá chú trọng vào khả năng ghi nhớ, tái hiện kiến thức, mà là khả năng đánh giá và vận dụng kiến thức; cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa đánh giá quá trình (thường xuyên) kết hợp với đánh giá định kỳ (tổng kết). Đồng thời, chú trọng phát triển kỹ năng tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau của học sinh với nhiều hình thức như theo lời giải/đáp án mẫu, theo hướng dẫn, hoặc tự xác định tiêu chí để có thể phê phán, tìm được nguyên nhân và nêu cách sửa chữa các sai sót.

2.1.4. Cơ sở của việc vận dụng phương pháp dạy học môn Lịch sử nhằm phát triển năng lực học sinh ở trường trung học phổ thông

- Mục tiêu giáo dục và đào tạo

Luật Giáo dục sửa đổi (2019) quy định: “Mục tiêu của giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề


nghiệp, trung thành với lý tướng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [104;8]. Theo đó, Chương trình Giáo dục phổ thông đã cụ thể hóa mục tiêu giáo dục trung học phổ thông là “giúp HS tiếp tục phát triển những phẩm chất, năng lực cần thiết đối với người lao động, ý thức và nhân cách công dân, khả năng tự học và ý thức tự học suốt đời, khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực và sở thích, điều kiện và hoàn cảnh của bản thân” [21;6]. Như vậy, mục tiêu giáo dục và đào tạo là căn cứ để lựa chọn nội dung, hình thức tổ chức, PPDH, trong đó vận dụng PPDHLS nhằm phát triển năng lực HS là một đòi hỏi tất yếu và cấp bách hiện nay để đáp ứng mục tiêu giáo dục.

-Yêu cầu của đổi mới giáo dục phổ thông

Giáo dục Việt Nam đang trong quá trình hội nhập toàn cầu, những kết quả đạt được của giáo dục trong những năm qua đã góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững đất nước. Vì vậy, việc không ngừng đổi mới giáo dục để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trang bị cho thế hệ trẻ nền tảng văn hoá vững chắc, năng lực thích ứng trước mọi biến động của xã hội trở thành nhu cầu cấp thiết.

Trong bối cảnh đó, Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (khoá XI) đã thông qua Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày 4 tháng 11 năm 2013 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 88/2014/QH13 ngày 28 tháng 11 năm 2014 về đổi mới chương trình, SGK giáo dục phổ thông, góp phần đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT. Ngày 27/3/2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 404/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đổi mới chương trình, SGK giáo dục phổ thông.

Thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Quốc hội và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể (2018) được xây dựng theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực của HS, với mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ có những phẩm chất tốt đẹp và năng lực cần thiết để trở thành người công dân toàn cầu, có trách nhiệm, người lao động có văn hoá, cần cù, sáng tạo, đáp ứng nhu cầu phát triển của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước trong tình hình mới [21;6]. Điều này đặt ra yêu cầu đổi mới hoạt động DH, trong đó đổi mới về hệ thống PPDH nhằm phát triển phẩm chất và năng lực của HS trở thành cấp thiết và mang tính thực tiễn cao.

Hệ thống PPDHLS được hình thành thông qua quá trình nghiên cứu tích lũy của nhiều thế hệ, trở thành cơ sở để GV tổ chức hoạt động dạy học hiệu quả. Chương trình


Giáo dục phổ thông tổng thể (2018) xác định năm phẩm chất chung cần bồi dưỡng và phát triển cho HS là: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm [20;7]. Nhưng do đặc trưng, nội dung và ưu thế của bộ môn Lịch sử nên trong quá trình dạy học còn bồi dưỡng cho HS nhiều phẩm chất tốt đẹp khác như lòng dũng cảm, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng, ý chí, nghị lực vượt qua khó khăn. Đồng thời, hình thành và phát triển cho HS những năng lực đặc thù của bộ môn như năng lực tìm hiểu lịch sử; năng lực nhận thức và tư duy lịch sử; năng lực vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học[21;7-8]. Để hình thành và phát triển được các phẩm chất và năng lực của HS, trong quá trình DHLS ở trường THPT đòi hỏi mỗi GV phải nỗ lực phấn đấu, tự bồi dưỡng, trau dồi kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm, nghệ thuật dạy học, trong đó vận dụng hệ thống PPDH nhằm phát triển và phẩm chất HS là một trong những yếu tố quyết định.

- Nhiệm vụ của bộ môn Lịch sử

Bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông là một trong những môn học cơ bản thuộc lĩnh vực khoa học xã hội. Đối tượng của khoa học lịch sử là tìm hiểu sự vận động và phát triển của xã hội loài người trong quá khứ; làm rõ các quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người. Nhiệm vụ của bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông là “giúp HS có được hệ thống kiến thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới; góp phần hình thành ở HS thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng năng lực tư duy, hành động, thái độ ứng xử đúng đắn trong đời sống xã hội”[83;67].

Trong Chương trình Giáo dục phổ thông môn Lịch sử (2018), xác định mục tiêu của môn Lịch sử “có sứ mệnh giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực lịch sử, thành phần của năng lực khoa học, thông qua hệ thống các chủ đề và chuyên đề về lịch sử thế giới, lịch sử khu vực Đông Nam Á và lịch sử Việt Nam, góp phần vào việc xây dựng những phẩm chất chủ yếu và năng lực chung được xác định trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể” [22;3].

Do đặc trưng riêng của kiến thức lịch sử, nên bộ môn Lịch sử đặc biệt có ưu thế để giáo dục truyền thống dân tộc, bồi dưỡng phẩm chất, nhân cách tốt đẹp cho HS, biết nhận thức sâu sắc và vận dụng được các bài học lịch sử vào việc giải quyết những vấn đề của thực tế cuộc sống. Đồng thời, góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển năng lực tư duy và hành động, cũng như khả năng khai thác và sử dụng các nguồn sử liệu trong quá trình nhận thức. Ngoài ra, học lịch sử còn giúp học định hướng lựa chọn những nghề nghiệp phù hợp với khả năng và sở trường của mình.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 11/05/2023