Lịch Sử Phát Triển Quyền Con Người Ở Việt Nam


1966 (ICESCR). Hai công ước chính đã được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua năm 1966 và được nhiều nước tham gia. Đây là văn kiện đề cập một cách toàn diện, cơ bản về quyền con người. Bộ luật Nhân quyền quốc tế có vị trí vô cùng quan trọng, là nền tảng của luật pháp quốc tế về quyền con người.

(1) Tuyên ngôn Toàn thế giới về quyền con người (UDHR)

UDHR là tuyên ngôn về các quyền cơ bản của con người được Đại Hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948. Trong lời nói đầu, tuyên ngôn đã thực sự đề cao tầm quan trọng của nhân quyền đối với sự sống còn của loài người: “việc thừa nhận phẩm giá bẩm sinh và những quyền bình đẳng bất khả chuyển nhượng của tất cả các phần tử trong đại gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, công lý và hoà bình thế giới” [42, tr.48]. Tuyên ngôn bao gồm 30 điều, lần đầu tiên liệt kê một cách toàn diện những quyền của con người trong tất cả các phương diện chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội và văn hóa. Văn bản được trình bày với ngôn ngữ đơn giản, dễ hiểu để mọi người trên thế giới đều có thể đọc và hiểu.Tuyên ngôn thực chất không phải là một điều ước quốc tế có hiệu lực, nhưng nó có một sức mạnh “luân lý” to lớn đối với các quốc gia trên thế giới. Tập hợp các quyền con người trong tuyên ngôn trở thành một tiêu chuẩn chung được hầu hết các quốc gia quy định vào luật pháp của đất nước mình. Tuyên ngôn nhân quyền có tác động to lớn đối với thế giới và được đánh giá là một trong những văn kiện có tầm ảnh hưởng lớn nhất trong lịch sử. Nó đã thôi thúc sự phát triển nhân quyền ở rất nhiều quốc gia, các địa phương và các vùng lãnh thổ.

(2) Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị, năm 1966 (ICCPR)

ICCPR là một công ước quốc tế do Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 16 tháng 12 năm 1966 và có hiệu lực từ ngày 23 tháng 3 năm 1976, nêu tổng quan các quyền dân sự và chính trị cơ bản của con người. ICESCR là một phần của hệ thống bộ luật nhân quyền quốc tế. Một trong những quyền


quan trọng khác được công ước long trọng ghi nhận ở Chương I là quyền dân tộc tự quyết. Công ước khẳng định: “Mọi dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá“ [42, tr.78] . Sau đó, các quyền dân sự, chính trị được trình bày một cách có hệ thống trong công ước. Các điều khoản đều hướng tới sự bảo đảm tốt nhất đối với quyền sống, sự tự do, quyền được đối xử bình đẳng và sự tham gia của nhân dân vào đời sống chính trị quốc gia. Là một dạng cam kết quốc tế có hiệu lực, công ước ràng buộc nghĩa vụ của các quốc gia thành viên trong việc xây dựng pháp luật quốc gia để thực hiện công ước. Việt Nam đã gia nhập công ước vào ngày 24/9/1982.

(3) Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa năm 1966 (ICESCR).

ICESCR là một công ước quốc tế được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 16 tháng 12 năm 1966, có hiệu lực từ ngày 03 tháng 01 năm 1976. Việt Nam phê chuẩn công ước ngày 24 tháng 9 năm 1982. Theo nội dung của công ước, mọi người dân đều có quyền làm việc và được làm việc trong những điều kiện an toàn nhất, quyền tham gia công đoàn, quyền được hưởng an sinh và xã hội, quyền được học tập và thụ hưởng cuộc sống ở mức phù hợp, không ngừng nâng cao điều kiện cuộc sống. Song song với việc quy định về quyền của con người, công ước nêu cụ thể trách nhiệm của các quốc gia thành viên, bằng các biện pháp lập pháp hoặc phát triển kinh tế - xã hội phải tạo điều kiện để cá nhân phát triển đầy đủ và sung túc nhất.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 104 trang tài liệu này.

Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, và sau đó là hai Công ước trong Bộ luật Nhân quyền Quốc tế đã thúc đẩy sự ra đời của hàng loạt các Điều ước Quốc tế quy định về một khía cạnh cụ thể của quyền con người. Sau đây là một số Điều ước cốt lòi về quyền con người trong Luật pháp Quốc tế:

- Công ước quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc, 1965;

Bảo đảm quyền con người trong quá trình áp dụng các biện pháp xử lý hành chính - 3


- Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ nữ, 1979;

- Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm, 1984;

- Công ước về quyền trẻ em, 1989;

- Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của tất cả những người lao động di trú và các thành viên trong gia đình họ, 1990;

- Công ước về bảo vệ tất cả mọi người khỏi bị cưỡng bức mất tích, 2006;

- Công ước về quyền của người khuyết tật, 2007;

Và rất nhiều tuyên bố, nghị định thư và các Điều ước Quốc tế khác.

1.1.1.2. Lịch sử phát triển quyền con người ở Việt Nam

* Thời phong kiến

Yêu thương con người, khoan dung, nhân đạo là giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Từ cổ xưa, người Việt với nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, sống hòa mình với thiên nhiên nên bản tính hiền hòa, nhân hậu, chất phác. Rồi trải qua hàng ngàn năm chống chọi với thiên tai, bão lụt và những tai ách ngoại xâm khiến cho con người phải gắn bó chặt chẽ, cố kết với nhau hơn. Vì vậy, trong truyền thống văn hóa của con người Việt, lối sống trọng tình nghĩa và nếp nghĩ coi trọng con người, khoan dung, độ lượng đã trở thành một điều cốt lòi. Từ lâu, dân gian vẫn lưu truyền những câu ca dao, tục ngữ: “thương người như thể thương thân”, “Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”…

Tinh thần nhân đạo của dân tộc Việt còn bị ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng của Phật giáo. Với tinh thần từ, bi, hỷ, xả, đạo Phật hướng tới mục đích cứu vớt chúng sinh, cứu khổ, cứu nạn; ở đâu có đạo Phật, ở đó có sự đề cao con người và yêu thương con người. Mặt khác, theo giáo lý đạo Phật, không có tiểu nhân, không có quân tử, không có sự phân chia giai cấp, tất cả mọi người đều bình đẳng và đều có thể được giải thoát. Trải qua hàng trăm năm phát triển, đạo đức


Phật giáo đã thực sự ăn sâu vào truyền thống văn hóa của dân tộc, ảnh hưởng sâu sắc đến tâm lý, lối sống, phong tục, tập quán của con người.

Tư tưởng khoan dung, nhân đạo của dân tộc có ảnh hưởng rất lớn đến chính sách cai trị của các triều đại phong kiến Việt Nam. Trong lịch sử, các triều đại thường rất gần gũi với dân chúng và thi hành chính sách “thân dân”. Một trong những tư tưởng trị quốc lớn của thời kỳ phong kiến là “lấy dân làm gốc”. Trong Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi viết: “Việc nhân nghĩa cốt để yên dân. Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” [41]. Trần Hưng Đạo trước khi lâm chung còn căn dặn vua rằng: “Khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước” [49]. Vua và quan lại trong chế độ phong kiến phần lớn đều sống rất giản dị, không cách biệt quá lớn với nhân dân. Nhà nước phong kiến thường lấy sự an cư, lạc nghiệp của người dân làm cơ sở cho sự thịnh suy của triều đại. Không những thế, tinh thần nhân đạo còn được thể hiện trong các chính sách đối ngoại của các vương triều phong kiến. Sử sách chép lại rằng sau khi chiến thắng quân Minh, nghĩa quân Lam Sơn không những không giết hàng quân mà còn cung cấp ngựa, xe, thuyền bè để 10 vạn quân Minh được yên ổn rút về nước. Tư tưởng nhân đạo ấy được Nguyễn Trãi khái quát trong hai câu thơ ngắn gọn trong tác phẩm Bình Ngô Đại Cáo: “Đem đại nghĩa để thắng hung tàn. Lấy chí nhân để thay cường bạo” [41].

Tư tưởng đề cao con người thể hiện rò trong những bộ luật thời phong kiến. Thời nhà Lý, các nhà vua thường lấy sự an cư lạc nghiệp của nhân dân làm trọng. Điểm nổi bật nhất của thời kỳ này là nhà nước ban hành bộ luật thành văn đầu tiên trong lịch sử dân tộc - Bộ luật Hình thư. Mặc dù đã bị thất truyền, nhưng qua ghi chép của các nhà sử học, bộ luật này thể hiện tính nhân đạo rất cao. Tuy nhiên, nổi tiếng hơn cả là Bộ “Quốc triều Hình luật” hay còn được gọi là Bộ luật Hồng Đức được ban hành dưới thời Lê. Bộ luật đã kế thừa nhiều tinh hoa về tư tưởng nhân đạo trong lịch sử dân tộc, được đánh giá là bộ


luật có nhiều nét tiến bộ nhất trong lịch sử phong kiến.Trước hết, bộ luật có nhiều quy định để bảo vệ tính mạng, nhân phẩm và tài sản của người dân, hạn chế sự nhũng nhiễu, áp bức bóc lột của quan lại, quý tộc. Những người quyền quý ức hiếp, nhũng nhiễu nhân dân đều bị trừng trị nghiêm khắc. Điểm nổi bật nhất của bộ luật là quy định về bảo vệ nhân phẩm và quyền lợi của người phụ nữ. Người phụ nữ được bênh vực và hưởng nhiều quyền lợi, trong nhiều trường hợp, họ còn có sự bình đẳng với nam giới. Ngoài ra, Bộ luật Hồng Đức có nhiều quy định bảo vệ và đối xử nhân đạo đối với những đối tượng yếu thế trong xã hội và những bị can, bị cáo, người có tội. Đến thời nhà Nguyễn, triều đình ban hành bộ “Hoàng Việt luật lệ”. Mặc dù bị đánh giá là khắc nghiệt và mang nặng tính giai cấp, bộ luật cũng chứa nhiều quy định mang tính nhân đạo cao như các quy định về tha tội và ân xá, quy định trừng phạt quan lại vô cớ bắt, tra khảo dân, quy định về bảo vệ người phụ nữ…

* Thời Pháp thuộc

Thời kỳ này, các quyền con người ở Việt Nam bị chà đạp dưới sự áp bức bóc lột của thực dân Pháp và chính quyền phong kiến. Tuy nhiên, đây cũng là thời kỳ mà các tư tưởng dân chủ, tự do ở phương Tây, tư tưởng “tam dân” của Tôn Trung Sơn và chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá vào Việt Nam.

Hoạt động đấu tranh về quyền con người được các nhân sĩ và trí thức yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh… thúc đẩy từ khá sớm. Nhiều cuộc đấu tranh đã nổ ra nhằm mục tiêu đánh đổ ách áp bức, bóc lột, giành lại tự do cho dân tộc.

Tuy nhiên, nổi bật nhất trong thời kỳ này là sự đấu tranh của Nguyễn Ái Quốc vì quyền con người. Người viết tác phẩm Đường công lý của chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương để vạch trần bộ mặt thật của những kẻ xâm lược: “chưa có bao giờ ở một thời đại nào, ở một nước nào, người ta bị vi


phạm mọi quyền làm người một cách độc ác và trơ tráo đến thế” [29, tr.23]. Trong tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” được xuất bản bằng tiếng Pháp tại Pari, người lên án chế độ cai trị thuộc địa tàn bạo, vô nhân đạo của thực dân Pháp và đòi các quyền độc lập, tự quyết cho dân tộc. Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt nhóm những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi đến những nước tham gia hội nghị Vecsxai bản “yêu sách của nhân dân Việt Nam” gồm 8 Điều, trong đó có 4 Điều trực tiếp về quyền con người (tự do báo chí, tự do ngôn luận; tự do lập hội và hội họp; tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương; Tự do học tập, thành lập các trường kĩ thuật tại tất cả các tỉnh cho người bản xứ).

* Thời kỳ Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay

Cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công đã đưa dân tộc Việt Nam từ vị thế những người nô lệ trở thành những người chủ thật sự của đất nước. Mỗi người dân từ đây được hưởng các quyền con người, quyền công dân; dân tộc từ đây được tự quyết con đường phát triển của mình.

Bản Tuyên ngôn độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945 không những đã kế thừa tinh hoa trong tư tưởng về quyền con người trên thế giới mà còn phát triển những tư tưởng ấy lên một tầm cao mới, bằng việc nhắc lại những luận điểm bất hủ trong bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ và Tuyên ngôn Dân quyền và Nhân quyền của Pháp, người khẳng định về quyền dân tộc tự quyết: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” [29, tr.19]. Đây là một đóng góp vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ với dân tộc Việt Nam mà còn với nhân dân thế giới, đặc biệt là các nước thuộc địa. Điều này cho thấy, Người không chỉ là một nhà hoạt động cách mạng mà còn là một nhà tư tưởng xuất sắc về quyền con người.

Ngay khi đất nước được tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu


cầu tổ chức cuộc bầu cử đầu tiên càng sớm càng tốt để nhân dân được thực hiện quyền dân chủ. Về việc ban hành Hiến pháp, Người cho rằng: “Nước ta đã bị chế độ quân chủ cai trị rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế nên nước ta không có hiến pháp, nhân dân ta không được hưởng quyền tự do dân chủ. Chúng ta phải có hiến pháp dân chủ” [29, tr.356]. Bản Hiến pháp năm 1946 mặc dù được soạn thảo trong bối cảnh đất nước còn nhiều khó khăn nhưng đã dành sự quan tâm đặc biệt cho vấn đề quyền con người, trong 70 Điều, có 18 Điều quy định tập trung về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân.

Ngày 18/12/1959, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Hiến pháp mới - Hiến pháp năm 1959. Bản Hiến pháp này có 21 Điều quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân. Lúc bấy giờ, miền Bắc đã giành được độc lập, cơ sở kinh tế của chế độ mới đang bắt đầu hình thành, cuộc kháng chiến ở miền Nam đang bắt đầu. Hoàn cảnh kinh tế - xã hội cho phép Hiến pháp năm 1959 quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân một cách đầy đủ hơn, bổ sung thêm các quyền về kinh tế, văn hóa.

Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) tại Điều 50 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” [34, tr.18]. Thì Điều 14 Hiến pháp năm 2013 đã sửa đổi, bổ sung:

Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng [40, tr.6].


Đây là sự kế thừa có chọn lọc những giá trị bất biến về quyền con người được nghi nhận trong các Tuyên ngôn về Nhân quyền Quốc tế và các bản Hiến pháp của Nhà nước Việt Nam, lần đầu tiên Quyền con người được Hiến pháp đề cập một cách trực tiếp.

Quyền con người là một nội dung, một phạm trù chính trị pháp lý vô cùng quan trọng, được nhiều ngành khoa học xã hội - nhân văn nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau và được xem như là một đối tượng nghiên cứu cơ bản, quan trọng nhất. Có thể nói, đây là một vấn đề phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, văn hóa- xã hội, đạo đức… liên quan đến cả quá trình tổ chức thực thi quyền lực nhà nước cũng như các thiết chế xã hội khác. Và cũng chính vì vậy mà có nhiều quan niệm, khái niệm khác nhau về quyền con người. Hiện nay có rất nhiều định nghĩa về quyền con người, mỗi định nghĩa tiếp cận quyền con người theo những góc độ khác nhau. Một định nghĩa rất phổ biến thường được trích dẫn bởi các học giả theo học thuyết quyền tự nhiên cho rằng: “Quyền con người là những quyền cơ bản, không thể tước bỏ mà một người vốn được thừa hưởng đơn giản vì họ là con người” [22].

Ở cấp độ quốc tế, có một định nghĩa của Văn phòng cao ủy Liên Hợp Quốc thường xuyên được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người” [22, tr.37].

Ở Việt Nam, đã có nhiều tác phẩm phân tích về vấn đề quyền con người. Trong đó có tác phẩm Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người. Các tác giả đã định nghĩa quyền con người là “những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế” [22, tr.38].

Xem tất cả 104 trang.

Ngày đăng: 01/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí