Tạo Điều Kiện Và Huy Động Sự Tham Gia Của Xã Hội Vào Giám Sát Thực Hiện Pháp Luật Về Thi Đua, Khen Thưởng


4.2.6.2. Tạo điều kiện và huy động sự tham gia của xã hội vào giám sát thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng

Thứ nhất, đẩy mạnh công khai hóa các trình tự, thủ tục về tổ chức triển khai thực hiện pháp luật TĐKT trong phạm vi quản lý, đảm bảo mọi người lao động, người dân tiếp cận được dễ dàng và thống nhất trong thực hiện. Các quy trình, thủ tục phải được niêm yết trang bảng thông tin hoặc các phương tiện thông tin của đơn vị. Đồng thời, các quy trình, thủ tục trước khi banh hành phải có sự nghiên cứu kỹ lưỡng, cẩn thận, ngoài việc đảm bảo thuận lợi cho người lao động dễ làm, dễ thực hiện, còn phải có tính ổn định, tránh việc thay đổi thường xuyên.

Thứ hai, công khai lấy ý kiến đối với các trường hợp đề nghị xét tặng các DHTĐ, HTKT trên các phương tiện thông tin hoặc công khai tại cơ quan, trước khi các cấp có thẩm quyền quyết định khen thưởng. Hội đồng TĐ-KT Trung ương ban hành các quy định về cách thức tổ chức lấy ý kiến đối với các trường hợp đang đề nghị khen thưởng để các đơn vị thực hiện. Tuy nhiên, để việc lấy ý kiến đạt hiệu quả, tránh hình thức thì cần tổ chức để các cá nhân dễ tiếp cận và phản ánh ý kiến của mình, đặc biệt lưu ý ở các đơn vị có quy mô lớn, nhiều đơn vị trực thuộc nằm ở những địa phận khác nhau hay những nơi địa bàn thưa dân cư, vùng sâu, vùng xa…

Thứ ba, cần tăng cường trách nhiệm giải trình khi tiếp nhận và xử lý các phản ánh, kiến nghị từ hoạt động giám sát của xã hội. Cần quy định rõ trong Luật TĐKT và các văn bản hướng dẫn thực hiện về việc thực hiện đối thoại giữa cấp có thẩm quyền trong tổ chức triển khai thực hiện pháp luật TĐKT với đại diện ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, các Ban Thanh tra nhân dân có kiến nghị và công khai kết quả đối thoại đó.

4.2.6.3. Nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại, tố cáo trong thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng

Việc giải quyết có hiệu quả, triệt để các khiếu nại, tố cáo trong thực hiện pháp luật TĐKT sẽ đảm bảo những quyền và lợi ích chính đáng của


người lao động, quần chúng nhân dân, mặt khác kịp thời phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật về TĐKT. Một mặt tăng cương kỷ cương, kỷ luật và tạo dựng được niềm tin của người lao động, người dân, đồng thời giúp các cơ quan Nhà nước kịp khắc phục, sửa chữa nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong công tác TĐKT.

Thực tiễn cho thấy, các vụ việc khiếu nại, tố cáo liên quan tới thực hiện pháp luật TĐKT chủ yếu tập trung vào các vụ việc xét tặng DHTĐ, HTKT cho một hoặc một vài cá nhân, tập thể. Quyền lợi vật chất mà phần thưởng đem lại cho cá nhân, tập thể thực sự không lớn. Tuy nhiên, như đã nói, được suy tôn, ghi nhận bởi xã hội mới là phần thưởng cao quý và giá trị nhất. Do đó, việc giải quyết tối các vụ việc khiếu nại, tố cáo xây dựng được niềm tin từ những người lao động, quần chúng nhân dân, là những chủ thể quan trọng và lớn mạnh nhất trong PTTĐ. Thực hiện pháp luật TĐKT cũng như những lĩnh vực pháp luật khác, đều khó có thể tránh khỏi sai sót, đặc biệt đối với lĩnh vực đầy nhạy cảm và cần sự toàn diện như TĐKT. Do đó, khi có những vụ việc khiếu nại, tố cáo xảy ra, lãnh đạo, cán bộ ngành TĐKT cần phải xác minh nguồn gốc, nguyên nhân vụ việc. Bên cạnh việc thực hiện đúng quy định của pháp luật khiếu nại, tố cáo, cần phải qua đó để có sự nhìn nhận, đánh giá về môi trường thi đua ở nơi xảy ra vụ việc, hay nhìn nhận lại các quy định của pháp luật về vấn đề đó đã hợp lý chưa, các quy trình, thủ tục đã được cải cách, đơn giản để người dân có thể tiếp cận hay chưa.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 169 trang tài liệu này.

4.2.6.4. Xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật trong thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng

Thứ nhất, làm rõ trách nhiệm giữa cá nhân và tập thể, giữa người có thẩm quyền ra quyết định và người có trách nhiệm tham mưu trong việc thực hiện pháp luật TĐKT. Đó là cơ sở cho việc xác định trách nhiệm pháp lý của các bên đồng thời cũng là cơ sở để tăng cường giám sát đối với việc thực hiện pháp luật TĐKT. Làm được điều này đòi hỏi phải có sự phân công, phân cấp

Thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng ở Việt Nam hiện nay - 19


rõ ràng trong việc thực hiện pháp luật TĐKT, trước hết phải sửa đổi quy chế, quy định làm việc của các cơ quan, tổ chức theo hướng phân định rõ trách nhiệm của người đứng đầu.

Thứ hai, cần phân tách các nhóm chủ thể để xác định lỗi và chếa tài áp dụng tươnga ứng để xửa lý vi phạm trong thực hiện pháp luật TĐKT. Có thể phân tách các nhóm chủ thể trong các vi phạm pháp luật TĐKT với hình thức chếa tài tương ứng như sau:

- Chủ th đề nghị khen thưởng: đối với cá nhân kê khai thành tích sai sự thật đối với những điều kiện, tiêu chuẩn, thành tích đề nghị khen thưởng: hủy bỏ quyết định khen thưởng; đồng thời thu hồi hiện vật và tiền thưởng; tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà còn bị kỷ luật, xử phạt hành chính. Nếu chủ thể là tập thể thì người chịu trách nhiệm là người đứng đầu tập thể đó.

- Chủ th xác nhận thành tích: đây là cá nhân có thẩm quyền xác nhận thông tin, thành tích của cá nhân, tập thể đề nghị. Theo pháp luật TĐKT, đề nghị khen DHTĐ và HTKT càng cao thì sẽ qua rất nhiều khâu, nhiều cấp xác nhận. Do đó, xác định trách nhiệm ở cá nhâu cấp nào là rất phức tạp. Tuy nhiên, cấp gần nhất là cấp quản lý trực tiếp đối với cá nhân, tập thể đó là chủ thể có thể và có trách nhiệm nắm rõ thông tin, thành tích của các cá nhân, tập thể. Chủ thể xác nhận phải có sự nhận thức đúng đắn về việc xác nhận của mình và lường trước được hậu quả pháp lý nếu việc xác nhận không chính xác. Thực tế, có những trường hợp vì thành tích của tập thể mình hoặc vì một lý do nào khác, cấp thẩm quyền xác nhận cố ý xác nhận sai sự thật hoặc giả hồ sơ, giấy tờ cho người khác để đề nghị khen thưởng. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp do không nắm rõ mà xác nhận, hoặc do tin tưởng vào người đề nghị khen thưởng hoặc cán bộ tham mưu thực hiện mà xác nhận. Cần xác định rõ lỗi ở các trường hợp cụ thể như thế này để đề ra những hình thức xử lý tương ứng.

- Chủ th thẩm định hồ sơ: Là những cán bộ, cá nhân có chức năng,


nhiệm vụ tham mưu, thẩm định hồ sơ giúp cấp có thẩm quyền ra quyết định khen thưởng. Cũng như việc xác nhận khen thưởng ở trên, việc thẩm định hồ sơ cũng được thực hiện ở nhiều cấp, phụ thuộc vào việc DHTĐ, HTKT được đề nghị. Việc sai sót cũng có thể xảy ra ở khâu này. Hoặc do lỗi vô ý của chủ thể thẩm định, vì việc thẩm định chủ yếu dựa trên hồ sơ nộp của cá nhân, tập thể và đối chiếu giữa hồ sơ với các điều kiện, tiêu chuẩn khen thưởng. Nhưng có một số trường hợp do trách nhiệm hoặc nhận thức của cá nhân phụ trách mà hoặc là không phát hiện ra hồ sơ thiếu, hồ sơ giả hoặc do không nắm chắc điều kiện, tiêu chuẩn và thành tích của cá nhân, tập thể đề nghị nên thẩm định không đúng theo quy định.

- Chủ th c liên quan: thực hiện pháp luật TĐKT trải qua rất nhiều khâu nhiều công đoạn. Mỗi một khâu một công đoạn lại có rất nhiều chủ thể tham gia có liên quan. Ví dụ như khâu lưu trữ hồ sơ, để thất lạc hoặc do chậm trễ... đều có thể ảnh hưởng nhiều tới kết quả thực hiện pháp luật TĐKT. Như vậy khi xảy ra vụ việc khiếu nại, tố cáo cần có sự xác minh, kiểm tra rõ ràng để xác định trách nhiệm trong từng khâu cụ thể.

Thứ ba, hoàn thiện quy trình, thủ tục xác định hậu quả pháp lý và trách nhiệm pháp lý của từng loại chủ thể vi phạm trong THPL TĐKT. Quy định cụ thể, rõ ràng hơn nữa trong các văn bản hướng dẫn về xử lý kỷ luật cán bộ… khi xảy ra những hành vi vi phạm trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện pháp luật TĐKT. Quy định thành những điều khoản cụ thể trong hệ thống pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, pháp luật hình sự các vi phạm trong lĩnh vực TĐKT. Việc xây dựng các quy định này cần dựa vào sự phân tách giữa các nhóm và hình thức chế tài tương ứng với các nhóm vi phạm.

Thứ tư, xử lý vi phạm cũng như tăng cường giám sát việc xử lý các vi phạm trong thực hiện pháp luật TĐKT cần công khai, khắc phục tình trạng né tránh trong việc xác định và xử lý các hành vi vi phạm. Kết luận thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp luật TĐKT cũng phải được đảm bảo công khai,


minh bạch. Hội đồng TĐ-KT các cấp cần thường xuyên đưa vào chương trình họp Hội đồng để thảo luận và xác định trách nhiệm của tổ chức, cá nhân liên quan trong việc không thực hiện hoặc chậm trễ, ảnh hưởng tới việc triển khai thực hiện pháp luật TĐKT.

4.2.7. Tăng cường hợp tác quốc tế trong thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng

Công tác thực hiện pháp luật TĐKT là nét đặc thù của Việt Nam, khác với các nước khác trên thế giới, nhưng cũng chịu sự tác động nhiều trước công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế. Những năm tới đây, việc tăng cường hợp tác quốc tế trong thực hiện pháp luật TĐKT cần phải có sự đổi mới hơn, có thể tập trung vào một số giải pháp sau đây:

Thứ nhất, thực hiện tốt các quy định pháp luật về khen thưởng ngoại giao đối với các tập thể, cá nhân người nước ngoài có đóng góp vào sự nghiệp phát triển xã hội của nước ta.

Thứ hai, cử các đoàn đi học tập, nghiên cứu mô hình khen thưởng nước ngoài, đặc biệt các cách thức, biện pháp tạo động lực cho người lao động nói chung trong việc hoàn thành nhiệm vụ, cống hiến cho tập thể. Hai là, cách thức tôn vinh, vinh danh những cá nhân, tập thể đạt được thành tích cao. Ba là, cách tuyên truyền, quảng bá để những thành tích của các cá nhân, tập thể đó được lan truyền rộng rãi, tạo hiệu ứng tích cực trong xã hội.

Thứ ba, tổ chức nghiên cứu, bổ sung lý luận về TĐKT cũng như các quy định pháp luật về TĐKT trên cơ sở mô hình kinh nghiệm của các nước trên thế giới. Cần tiếp thu một cách chủ động, chọn lọc và cầu thị những cách làm hay, phù hợp với thực tiễn xã hội ở Việt Nam, trong đó đặc biệt chú trọng đến các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa và các nước trong khu vực, có những nét tương đồng về văn hóa với nước ta.


Tiểu kết Chương 4

Để khắc phục được các nguyên nhân của các hạn chế trong thực hiện pháp TĐKT đã chỉ ra ở chương 3, chương 4 Luận án đã luận chứng 04 quan điểm về công tác thực hiện pháp luật TĐKT trong thời gian tới, đó là, quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng về thực hiện pháp luật TĐKT đáp ứng yêu cầu của tình hình mới đồng thời đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong thực hiện pháp luật TĐKT; thực hiện pháp luật TĐKT phải đảm bảo bình đẳng, công khai, minh bạch; thực hiện pháp luật TĐKT đảm bảo tính dân chủ và kịp thời; thực hiện pháp luật TĐKT đảm bảo thực chất, tránh bệnh hình thức, bệnh thành tích.

Quán triệt 04 quan điểm, chương 4 cũng đã đề xuất thực hiện 07 giải pháp:

Một là, nâng cao nhận thức trong thực hiện pháp luật TĐKT.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật TĐKT.

Ba là, nâng cao chất lượng, đổi mới hoạt động của Hội đồng TĐKT các cấp và cơ quan làm công tác TĐKT.

Bốn là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác TĐKT.

Năm là, tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng thành tự công nghệ thông tin trong thực hiện pháp luật TĐKT.

Sáu là, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý khiếu nại, tố cáo trong thực hiện pháp luật TĐKT.

Bảy là, tăng cường hợp tác quốc tế trong thực hiện pháp luật TĐKT.


KẾT LUẬN

1. Pháp luật về thi đua, khen thưởng là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong công tác thi đua, khen thưởng; có vai trò thể chế hóa quan điểm, chủ trương về công tác thi đua, khen thưởng của Đảng, là cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng hiện nay.

2. Thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng là quá trình hoạt động có mục đích để những quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể. Ngay từ những năm đầu thành lập nước cho tới nay, hệ thống pháp luật thi đua, khen thưởng ở nước không ngừng được bổ sung, sửa đổi và hoàn thiện. Luật Thi đua, khen thưởng năm 2003, sửa đổi, bổ sung qua các năm 2005,2013 và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan tới quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ pháp luật thi đua, khen thưởng tiếp tục được bổ sung và hoàn thiện là cơ sở pháp lý vững chắc cho bảo đảm thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng ở Việt Nam.

3. Thực tiễn thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng ở Việt Nam hiện nay đã đạt được kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, cũng bộc lộ những hạn chế nhất định như: các quy định của pháp luật thi đua, khen thưởng còn có tính tuỳ nghi cao, thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng ở các cơ quan, địa phương chưa có sự thống nhất, đồng bộ; nhận thức về vai trò, ý nghĩa của thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng còn chưa thực sự nhất quán; các phong trào thi đua phát động còn mang tính hình thức, việc khen thưởng còn chưa thực chất; đội ngũ cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng; việc áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý thực thiện pháp luật thi đua, khen thưởng trong cả nước còn chưa được chú ý…

4. Để bảo đảm thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng cần quán triệt 04 quan điểm: quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng về thực hiện pháp


luật thi đua, khen thưởng đáp ứng yêu cầu của tình hình mới đồng thời đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trong thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng; thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng phải đảm bảo bình đẳng, công khai, minh bạch; thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng đảm bảo tính dân chủ và kịp thời; thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng đảm bảo thực chất, tránh bệnh hình thức, bệnh thành tích.

5. Nhằm thực hiện tốt 04 quan điểm trên, thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng ở Việt Nam hiện nay cần thực hiện đồng bộ các giải pháp: Một là, nâng cao nhận thức trong thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng; Hai là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật thi đua, khen thưởng; Ba là, nâng cao chất lượng, đổi mới hoạt động của Hội đồng TĐ-KT các cấp và cơ quan làm công tác thi đua, khen thưởng; Bốn là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng; Năm là, tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, ứng dụng thành tự công nghệ thông tin trong thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng; Sáu là, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát và xử lý khiếu nại, tố cáo trong thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng; Bảy là, tăng cường hợp tác quốc tế trong thực hiện pháp luật thi đua, khen thưởng.

Xem tất cả 169 trang.

Ngày đăng: 03/04/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí