Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Thực Hiện Chính Sách Phát Triển Nhân Lực Ngành Ngoại Giao Trong Giai Đoạn 2021-2030

phương trong thời gian tới sẽ có ý nghĩa quyết định trong việc tạo sức bật mới cho sự phát triển và vị thế đất nước.

Thứ ba, ứng cử vào các vị trí, ưu tiên vị trí quản lý, điều hành các cơ chế/tổ chức đa phương. Cho đến nay Việt Nam đã cử nhiều cán bộ ngoại giao có kinh nghiệm vào làm việc tại các vị trí quan trọng của các tổ chức quốc tế như Tổng thư ký ASEAN nhiệm kỳ 2013-2017, Phó Tổng thư ký ASEAN (2018-2021), và Phó chủ tịch thứ hai của Ủy ban Luật pháp quốc tế, cơ quan chính của Liên hợp quốc trong việc pháp điển hóa và phát triển tiến bộ luật pháp quốc tế (2018 – 2023). Nhằm làm tốt hơn việc cử ngày càng nhiều người Việt Nam hơn vào làm việc tại các tổ chức quốc tế, nhất là đảm nhận các vị trí quan trọng, năm hướng giải pháp chủ yếu bao gồm: (i) Tích cực xây dựng và triển khai chính sách sử dụng, đãi ngộ, nâng cao năng lực nhằm hình thành đội ngũ chuyên gia đa phương theo hướng chuyên nghiệp; tăng cường cử cán bộ làm việc tại các cơ chế đa phương quan trọng, đến năm 2030, hình thành đội ngũ chuyên gia đáng kể của Việt Nam làm việc tại các tổ chức khu vực và quốc tế quan trọng; (ii) Xây dựng và triển khai kế hoạch chuẩn bị nhân sự để ứng cử vào vị trí lãnh đạo của một số cơ chế đa phương quan trọng, phù hợp với thế và lực mới cũng như nhu cầu hội nhập quốc tế của đất nước; (iii) Đăng cai và hoàn thành tốt vai trò chủ nhà của các sự kiện đa phương quốc tế và khu vực lớn ở Việt Nam, vận động các tổ chức quốc tế và khu vực đặt trụ sở, văn phòng đại diện tại Việt Nam. Những năm qua, Việt Nam đã bảo vệ lợi ích quốc gia và nâng cao vị thế đất nước nhờ các thành công trong việc nhận các trọng trách quan trọng tại các diễn đàn và cơ chế đa phương. Trong thời gian tới, để nâng tầm đối ngoại đa phương, Việt Nam cần tiếp tục phát huy tính tích cực và đóng góp sau khi đảm nhận thành công vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2020, Ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021…, đồng thời tăng cường vận động các tổ chức khu vực, quốc tế đặt trụ sở, văn phòng đại diện ở Việt Nam; đăng cai tổ chức

định kỳ hội nghị, diễn đàn về những vấn đề mà khu vực, quốc tế quan tâm và Việt Nam có thế mạnh; Chủ động xây dựng kế hoạch đến năm 2030 về việc đăng cai các hoạt động đa phương và ứng cử vị trí lãnh đạo của các tổ chức khu vực, quốc tế; (iv) Chú trọng nghiên cứu về chủ nghĩa đa phương và các tổ chức/cơ chế đa phương, đào tạo nhân sự tham gia đối ngoại đa phương trong nước và tại các cơ chế, tổ chức đa phương quan trọng, nhất là ASEAN, APEC và Liên hợp quốc. Để nâng tầm công tác đối ngoại đa phương, Việt Nam cần đầu tư nhiều hơn cho công tác nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược và dự báo về lý luận và thực tiễn, xu thế phát triển của chủ nghĩa đa phương; (v) Đồng thời tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu và thực hiện công tác đối ngoại đa phương bởi công tác cán bộ có ý nghĩa then chốt trong triển khai nâng tầm đối ngoại đa phương. Cụ thể, cần chú trọng đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng triển khai hội nhập quốc tế nói chung và đối ngoại đa phương cho các cán bộ của các bộ, ban, ngành, địa phương; triển khai tích cực công tác đào tạo, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ, chuyên gia làm công tác đối ngoại đa phương theo hướng chuyên nghiệp, có đủ bản lĩnh chính trị, trình độ và kỹ năng đa phương trong kỷ nguyên số và toàn cầu hóa; phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam sẽ có đội ngũ làm công tác đa phương vững mạnh, nhất là về ASEAN, Liên hợp quốc, WTO, FTA, luật pháp quốc tế, kinh tế phát triển và môi trường.

4.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao trong giai đoạn 2021-2030

Trên cơ sở phương hướng nêu trên và từ thực trạng thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao, luận án đề xuất một số giải pháp sau:

4.2.1. Tiếp tục hoàn thiện khung thể chế thực hiện chính sách

Ngành Ngoại giao được xây dựng trên nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, lý luận Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc xây dựng khung thể chế thực hiện chính sách Ngành phải quán triệt và thực hiện

theo đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật quy định của Nhà nước, phù hợp với đặc thù của ngành Ngoại giao; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia – dân tộc.

Thể chế chính sách là công cụ quan trọng nhất để cụ thể hóa những quan điểm chỉ đạo, định hướng của Đảng đối với sự phát triển nhân lực ngành Ngoại giao. Phân tích thực trạng các yếu tố đầu vào trong thực hiện chính sách phát triển nhân lực Ngành tại chương 3 đã cho thấy hệ thống thể chế chính sách được ban hành với số lượng lớn đã hình thành lên khung pháp lý quan trọng, làm căn cứ thực hiện chính sách phát triển nhân lực Ngành. Tuy nhiên, trước những đòi hỏi mới từ cục diện thế giới trong những năm gần đây (2019-2021) và mục tiêu đề ra trong Đại hội Đảng lần thứ XIII cho thấy hệ thống thể chế chính sách cần được hoàn thiện để quán triệt sâu sắc quan điểm và định hướng có những nét đột phá của Đảng về lộ trình phát triển của Việt Nam và nhiệm vụ đặt ra cho phát triển nhân lực ngành Ngoại giao. Về giải pháp, tập trung chú trọng vào giải pháp hoàn thiện thể chế chính sách phát triển nhân lực Ngành nhằm tạo ra khung pháp lý cụ thể hóa chính sách trong thực tiễn đảm bảo các tiêu chí cơ bản để theo dõi kiểm định và đảm bảo tính mở, tính linh hoạt trong thực hiện theo đặc điểm của lĩnh vực, địa bàn.

Giải pháp được cụ thể hóa trên một số nội dung như sau: (i) đảm bảo bảo nhân lực ngành Ngoại giao không chỉ tuân thủ pháp luật trong nước mà còn cần hiểu biết và tuân thủ pháp luật của nước ngoài để làm đúng và thực hiện được nhiệm vụ của Ngành. (ii) thường xuyên thực hiện rà soát, hệ thống hóa văn bản quy phạm trong nước và hệ thống quy định của pháp luật quốc tế về các lĩnh vực để kịp thời sửa đổi, bổ sung, tránh mâu thuẫn, làm cơ sở kịp thời ban hành văn bản mới. (iii) hoàn thiện các quy định liên quan đến chế độ chính sách sử dụng, đánh giá, đãi ngộ đối với nhân lực ngành Ngoại giao. Các chính sách cần đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất và đầy đủ; đảm bảo độ mở của chính sách, quy định về nguyên tắc, hướng dẫn tuân thủ v.v. 3 nội dung nêu trên được diễn giải cụ thể hóa trong một số hợp phần thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao như sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 233 trang tài liệu này.

Về quy hoạch, kế hoạch phát triển nhân lực ngoại giao: Quy hoạch, kế hoạch phát triển nhân lực ngành Ngoại giao phù hợp với mục tiêu trong Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước đến năm 2030. Cụ thể trong cải cách chế độ công vụ, xây dựng nền công vụ chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và thực tài. Thực hiện cơ chế cạnh tranh lành mạnh, dân chủ, công khai, minh bạch trong bổ nhiệm, đề bạt cán bộ và tuyển dụng công chức, viên chức để thu hút người thực sự có đức, có tài vào làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước. Đến năm 2025, xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có cơ cấu hợp lý, đáp ứng tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và khung năng lực theo quy định. Đến năm 2030, xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có chất lượng cao, có số lượng, cơ cấu hợp lý; đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ: 50% - 60% số lãnh đạo, quản lý cấp phòng, vụ, cục, tổng cục và tương đương ở Trung ương; 25% - 35% số lãnh đạo, quản lý cấp sở, ngành, Ủy ban nhân dân cấp huyện và tương đương; trên 30% số lãnh đạo, quản lý cấp phòng trực thuộc sở, ngành, Ủy ban nhân dân cấp huyện và tương đương; 80% số lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp nhà nước có đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế.. Bên cạnh đó, trong quy hoạch, kế hoạch xây dựng đội ngũ, chú trọng tăng cường tính gắn kết và thống nhất giữa kế hoạch phát triển nhân lực ngành Ngoại giao với quy hoạch tổng thể phát triển nhân lực cả nước. Khi xác định chỉ tiêu thành phần, cần đảm bảo xác định được những chỉ tiêu phấn đấu sát thực trong từng giai đoạn phát triển, trong đó ưu tiên tăng cường quy hoạch cán bộ ngoại giao đa phương. Đồng thời thực hiện tuyên truyền và có chính sách khuyến khích, động viên ứng cử, đảm nhiệm các vị trí quan trọng tại các tổ chức khu vực và quốc tế như Ban Thư ký Liên hợp quốc, Ban Thư ký ASEAN, APEC, UNESCO v.v. Khuyến khích các chương trình hợp tác khu vực, tiểu vùng xây dựng đầu mối, trụ sở, ban thư ký hoặc chi nhánh (như Ban Thư ký GMS, Trung tâm đào tạo GMS …) tại Việt Nam để tăng cường vai trò của nước ta. Trong dự nguồn nhân lực, chú trọng tạo nguồn cán bộ từ trong dân, tạo điều

kiện cho các tầng lớp xã hội hiểu và tham gia, đóng góp đúng mức và đúng cách thức cho nỗ lực chung vì lợi ích quốc gia, dân tộc trong thời kỳ toàn cầu hóa, để giảm bớt gánh nặng cho ngành và Chính phủ. Trong hệ thống giáo dục quốc dân, tích hợp dần các nội dung về đối ngoại để nuôi dưỡng phát triển có hệ thống kiến thức ngoại giao tích hợp trong hệ thống giáo dục quốc dân, nâng cao mặt bằng tri thức, xây dựng xã hội tri thức, trang bị cho sinh viên kiến thức đa chiều về hội nhập quốc tế và chính sách ngoại giao.

Thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao ở Việt Nam hiện nay - 18

Về thu hút, tuyển dụng: Một số nội dung chính trong khung thể chế thực hiện chính sách phát triển nhân lực ngành Ngoại giao đối với hợp phần thu hút và tuyển dụng như sau: (i) Xây dựng chính sách thu hút, tuyển dụng đều đặn hàng năm, tránh tình trạng năm tuyển nhiều, năm không tuyển, khắc phục tình trạng hẫng hụt cán bộ ngoại giao giữa các thế hệ. (ii) Cân đối chính sách tuyển dụng theo tiềm năng và tuyển dụng theo kinh nghiệm để đảm bảo chất lượng đội ngũ trong thực tiễn các hoạt động đàm phán, tham mưu, quyết định trong các sự kiện ngoại giao. (iii) Tuyển dụng tại chỗ cần kết hợp với phát triển các điều kiện đảm bảo ASXH. (iv) Ưu tiên trong tuyển dụng theo chính sách nhân tài; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng hoàn thiện tiêu chuẩn nghiệp vụ và chức danh lãnh đạo đối với đội ngũ công chức, viên chức nói chung và đội ngũ công chức, viên chức trẻ có trình độ chuyên môn sâu theo quy hoạch của Bộ về vị trí việc làm, đảm bảo cân đối “tuyển dụng theo tiềm năng” và “tuyển dụng theo kinh nghiệm”. (v) Mở rộng và đa dạng hóa hình thức, đối tượng tiếp cận, dự tuyển mỗi năm; nâng cao năng lực người tuyển dụng, trong đó tính đến hình thức thuê dịch vụ tư vấn về marketing, chiến lược tuyển dụng. Thí điểm áp dụng thi tuyển chức danh lãnh đạo, quản lý đối với một số vị trí.

Về sử dụng, đánh giá nhân lực: Trong sử dụng, đánh giá nhân lực, các hoạt động ưu tiên thực hiện để khắc phục những hạn chế đã nêu trong Chương 3 như sau: (i) Tối ưu hóa công tác quy hoạch, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động: Xác định tiêu chuẩn, cơ cấu đội ngũ cán bộ trong quy hoạch (lĩnh vực công tác, tỷ lệ nam nữ, độ tuổi …), từng bước trẻ hóa đội ngũ cán bộ lãnh đạo

quản lý, bao gồm cả các đơn vị trong nước và cơ quan đại diện ở nước ngoài. Xây dựng quy hoạch đội nguồn cán bộ tinh hoa, ưu tú để có bồi dưỡng, đào tạo đặc biệt. (ii) Luân chuyển, điều động cán bộ giữa các đơn vị trong nước và giữa trong nước với cơ quan đại diện ở nước ngoài đối với các vị trí việc làm có cùng nhóm tính chất; (iii) Thực hiện luân chuyển, biệt phái cán bộ đối ngoại, qua đó tạo sự gắn kết toàn diện, phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các chủ thể triển khai nhiệm vụ đối ngoại; (iv) Chính thức hóa, dần dần đưa vào hệ thống chính trị các quy định về chức danh Trợ lý Vụ trưởng, Trợ lý Bộ trưởng; xây dựng cơ chế quản lý cán bộ, nhất là các cán bộ biệt phái tại các tổ chức quốc tế … Đặc biệt về hệ thống hàm cấp ngoại giao, cần (v) Chuẩn hóa hệ thống hàm cấp ngoại giao: Hướng tới xây dựng Luật về hàm, cấp ngoại giao, chuẩn hóa và phổ cập hàm, cấp trong đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại nhằm tăng tính chuyên nghiệp, bổ sung thước đo và lộ trình phát triển sự nghiệp cán bộ ngoại giao; Về lâu dài hướng tới thống nhất hàm cấp ngoại giao trong nước với chức vụ ngoại giao ở cơ quan đại diện. Xây dựng Bộ quy định về sử dụng hàm cấp ngoại giao; triển khai ứng dụng hàm ngoại giao vào đời sống công vụ, sử dụng hàm ngoại giao bổ sung, thay thế cho một số chức danh lãnh đạo hành chính để nâng hiệu quả xử lý công việc và bảo đảm phù hợp với thông lệ quốc tế. Đề xuất xem xét quy định cán bộ hàm Tham tán có thể được sử dụng tương đương cấp Phòng trong tiếp xúc đối ngoại. (vi) Kiện toàn hệ thống vị trí việc làm mang đặc thù của ngành Ngoại giao: Xây dựng vị trí việc làm cả ở trong và ngoài nước làm cơ sở cho công tác xác định biên chế, tuyển dụng, đào tạo bồi dưỡng, sử dụng, luân chuyển, đánh giá, khen thưởng. Đối với các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ, (vii) Rà soát, nghiên cứu giảm số lượng đơn vị đầu mối, tập trung nguồn lực cho các lĩnh vực mang ý nghĩa thiết thực; tăng cường hiệu quả hoạt động tự chủ, nâng cao đời sống cho nhân lực trong các đơn vị sự nghiệp của Bộ Ngoại giao.

Về đào tạo, bồi dưỡng nhân lực Ngành: Căn cứ vào các văn bản quy phạm pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng; căn cứ chức năng, nhiệm vụ của Bộ Ngoại giao; cơ cấu tổ chức và tiêu chuẩn thành viên cơ quan đại diện; Chiến

lược và quy hoạch phát triển nguồn nhân lực của ngành Ngoại giao giai đoạn 2021-2025 và yêu cầu, nhiệm vụ trọng tâm của ngành đối ngoại, cần xây dựng Đề án đổi mới công tác bồi dưỡng cán bộ luân chuyển nhiệm kỳ tại cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài, song song với nền tảng là xây dựng Chương trình tổng thể về đào tạo, bồi dưỡng nhân lực Ngành trong giai đoạn 2021- 2030, trong đó nâng cao tính hiệu quả, chất lượng, khả năng ứng dụng, phục vụ công tác của các khóa học; đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng; đẩy mạnh đào tạo tại chỗ; đào tạo trực tuyến, từ xa để tạo điều kiện cho cán bộ đang công tác trong nước cũng như ở cơ quan đại diện vừa đảm nhận công việc tại đơn vị vừa tham gia các khóa học; tăng cường bồi dưỡng lòng yêu nghề, nêu cao và khuyến khích ý thức chủ động trong học tập của mỗi cán bộ; đề xuất các cơ chế, chính sách, biện pháp nhằm triển khai thực hiện chương trình, gắn kết quả đào tạo, bồi dưỡng với các công tác cán bộ khác như bổ nhiệm, đề bạt, luân chuyển. Ngoài ra, cần chú trọng thiết kế các chương trình bồi dưỡng theo hướng chuyên nghiệp, chuyên biệt và chuyên sâu, tổ chức các lớp bồi dưỡng thường xuyên nhằm đào tạo, đào tạo theo tiêu chuẩn Ngành cho tất cả đối tượng cán bộ trong Bộ Ngoại giao, từ cán bộ trẻ mới vào Ngành cho đến các đồng chí Thủ trưởng đơn vị ở trong và ngoài nước. Bên cạnh các chương trình đó, tăng cường đào tạo các kỹ năng cơ bản, kỹ năng mới cần thiết trong công tác đối ngoại, đồng thời bồi dưỡng chuyên sâu, hướng tới xây dựng đội ngũ chuyên gia ở các lĩnh vực như Luật quốc tế, Luật biển, các vấn đề về biên giới, hải đảo, các tổ chức quốc tế đa phương; chuyên gia về các nước lớn, các đối tác chiến lược, các đối tác láng giềng quan trọng gắn với ngôn ngữ địa phương của các nước này cũng như các vấn đề mới như ngoại giao số, ngoại giao kinh tế, kinh tế số, ngoại giao văn hóa, ngoại giao công chúng, ngoại giao vắc–xin, ngoại giao môi trường …. Đẩy mạnh chương trình đào tạo qua thực tập ở trong nước, ở các nước ngoài và đào tạo qua công việc cũng như thúc đẩy hợp tác quốc tế trong các chương trình đào tạo, bồi dưỡng. Bộ Ngoại giao tiếp tục vận động, tìm kiếm các nguồn học bổng từ các chính phủ nước ngoài, các tổ chức quốc tế để cử cán bộ đi đào tạo Tiến sĩ,

Thạc sĩ và các chương trình bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ tại nước ngoài; tích cực tìm hiểu, trao đổi với các cơ sở đào tạo tại nước ngoài và các cơ sở đào tạo của nước ngoài tại Việt Nam để xây dựng các khóa học có nội dung, kỹ năng phù hợp với nhu cầu nâng cao nguồn nhân lực của Bộ Ngoại giao hoặc mời giảng viên nước ngoài tham gia giảng dạy tại một số khóa học do Bộ Ngoại giao tổ chức … Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, lấy người học làm trung tâm, quan tâm đẩy mạnh công tác đào tạo tại chỗ, đào tạo trực tiếp tại mỗi đơn vị; gắn đào tạo tại chỗ cho cán bộ trẻ với trách nhiệm của Thủ trưởng, lãnh đạo từng đơn vị; kết hợp đào tạo tại chỗ với đào tạo lại; có hình thức ghi nhận và đánh giá cuối năm. Xây dựng Hệ sinh thái đào tạo ngoại giao, bao gồm đào tạo toàn diện, đào tạo theo yêu cầu công việc, theo vị trí việc làm, phù hợp với năng lực cá nhân, đào tạo suốt đời công chức. Đồng thời, thực hiện phân tầng đào tạo với các lớp cán bộ khác nhau; có chương trình đào tạo nhân tài trong Bộ; chú trọng đào tạo chuyên gia, chuyên sâu ở trình độ Thạc sĩ, Tiến sĩ về một số chuyên ngành như Luật, Kinh tế, Môi trường... Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo trong đào tạo, mở rộng các loại hình đào tạo, tạo điều kiện để cán bộ ngoại giao trong và ngoài nước liên tục được đào tạo, bồi dưỡng; đẩy mạnh e-leaming, e-training; đổi mới các chương trình nhằm đạt chất lượng, hiệu quả tốt nhất; quan tâm kỹ năng số, ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển và tận dụng tối đa nguồn lực quốc tế.

Hơn nữa, trong chương trình đào tạo, bồi dưỡng, cần chú trọng đẩy mạnh bồi dưỡng kỹ năng sử dụng và quản lý mạng xã hội: Công tác đào tạo cần tiến hành thường xuyên, định kỳ và có kế hoạch cụ thể về những vấn đề về thông tin tuyên truyền nói chung và công tác thông tin đối ngoại nói riêng, nghiệp vụ báo chí (quay phim, chụp ảnh, kỹ năng tiếp xúc với báo chí và xử lý khủng hoảng thông tin), công nghệ thông tin (các thao tác kỹ thuật trên mạng xã hội, vấn đề bảo mật). Đây là một khâu quan trọng do đối tượng được đào tạo là các cán bộ được trực tiếp được giao nhiệm vụ phụ trách các trang mạng xã hội của Bộ Ngoại giao/cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài; Lãnh đạo các đơn vị phụ trách trang mạng xã hội và website có tương tác với

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/03/2023