Người Điều Hành Cuộc Bán Đấu Giá

Hà Lan" cũng đôi khi được dùng để mô tả đấu giá trực tuyến, nơi một số mặt hàng giống hệt nhau được bán đồng thời một số lượng tương đương. Vào năm 1720, xuất khẩu của Hà Lan tăng lên 10%, mà trong đó đấu giá chiếm một tỷ lệ rất lớn. Ngoài ra, đấu giá Hà Lan cũng đã được sử dụng để bán một số hàng hóa dễ bị hư hỏng như cá và thuốc lá. Tuy nhiên, trong thực tế, việc bán đấu giá Hà Lan không được sử dụng rộng rãi.

Ngày nay, với sự phát triển của khoa học, công nghệ thông tin, ngoài các hình thức đấu giá trên còn có các hình thức đấu giá thông qua mạng Internet. Đấu giá thông qua mạng Internet là hình thức đấu giá mà việc trả giá và xét giá được thực hiện hoàn toàn thông qua mạng Internet.

Ở Việt Nam, Điều 13 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP về đấu giá tài sản quy định: Tổ chức bán đấu giá tài sản có thể lựa chọn một trong các hình thức đấu giá sau đây để tiến hành cuộc bán đấu giá tài sản: Đấu giá trực tiếp bằng lời nói; đấu giá bằng bỏ phiếu; các hình thức khác do người có tài sản bán đấu giá và tổ chức bán đấu giá tài sản thỏa thuận.

Trường hợp đấu giá bằng lời nói: Người điều hành yêu cầu những người tham gia đấu giá trả giá trực tiếp bằng lời, sau 03 lần nhắc lại giá của người trả giá cao nhất mỗi lần cách nhau 30 giây mà không có người nào trả giá cao hơn, người điều hành công bố người mua được tài sản bán đấu giá là người trả giá cao nhất. Trường hợp đấu giá bằng bỏ phiếu kín thì người điều hành phát cho mỗi người đăng ký đấu giá một tờ phiếu và yêu cầu họ ghi giá muốn mua vào phiếu của mình, sau khi thu hết số phiếu đã phát ra, người điều hành công bố giá đã trả cao nhất của vòng đầu và tiếp tục phát phiếu cho những người tham gia ở vòng tiếp theo, mức giá cao nhất ở vòng trước được coi là giá khởi điểm của vòng sau.

Tuy nhiên thực tế hoạt động bán đấu giá tài sản trong những năm qua, hình thức bán đấu giá chủ yếu là hình thức đấu giá công khai bằng lời nói và hình thức đấu giá bằng bỏ phiếu, hình thức đấu giá thông qua mạng Internet

hầu như chưa được áp dụng do người tham gia đấu giá chưa đáp ứng được yêu cầu của đấu giá qua mạng, thủ tục đăng ký tham gia qua mạng còn chưa chuyên nghiệp. Hơn nữa, chúng ta chưa có quy định điều chỉnh hoạt động đấu giá qua mạng Internet. Trong hai hình thức đấu giá được quy định nêu trên, hình thức đấu giá trực tiếp bằng lời nói là hình thức đảm bảo công khai tốt nhất, người tham gia đấu giá được biết một cách chính xác giá mà người tham gia đấu giá khác đã trả, khả năng gian lận về mức giá là thấp nhất.

Hình thức đấu giá bằng bỏ phiếu trực tiếp với ưu điểm là đơn giản, dễ thực hiện, tốn ít thời gian tổ chức đấu giá, được nhiều địa phương cho là phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương cho nên hiện nay hình thức này vẫn được nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước tiếp tục duy trì và được quy định cụ thể trong các quy định về đấu giá quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố ban hành. Hình thức đấu giá bằng bỏ phiếu trên thực tế có cả hình thức bỏ phiếu trực tiếp từng vòng và hình thức bỏ phiếu trực tiếp một vòng. Tuy nhiên, để đảm bảo sự công bằng trong đấu giá cũng như đảm bảo việc đấu giá phản ánh đúng giá trị thực của đất đai cần phải áp dụng rộng rãi hình thức đấu giá bỏ phiếu trực tiếp nhiều vòng.

2.2.3. Người điều hành cuộc bán đấu giá

Theo quy định cũ, người điều hành cuộc bán đấu giá tài sản có thể là đấu giá viên hoặc không phải là đấu giá viên. Trong trường hợp đấu giá các tài sản đặc thù thì người bán đấu giá tài sản có thể cử hoặc thuê người không phải là đấu giá viên để điều hành cuộc bán đấu giá tài sản. Tuy nhiên, người này phải đảm bảo yêu cầu về việc điều hành đấu giá và am hiểu về tính đặc thù của tài sản. Nghị định 17/2010/NĐ-CP quy định chặt chẽ hơn về vấn đề này. Theo đó, pháp luật quy định chỉ có đấu giá viên là người điều hành cuộc bán đấu giá. Chính vì vậy, pháp luật đã nâng cao tiêu chuẩn trở thành đấu giá viên (Điều 5). Theo quy định của pháp luật Việt Nam, đấu giá viên phải là công dân Việt Nam có bằng đại học và đã qua thực tế công tác ngành đã học

hai năm trở lên; có phẩm chất đạo đức tốt; không phải là người bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc là người đang chấp hành án, mang án tích nhưng chưa đến thời hạn xóa án hoặc bị quản chế hành chính. Những người thỏa mãn những điều kiện trên đây được cấp thẻ Đấu giá viên theo trình tự luật định.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 97 trang tài liệu này.

Do tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề đối với đấu giá viên được nâng lên, nên trách nhiệm pháp lý của họ cũng được nâng cao. Cụ thể, đấu giá viên được sử dụng quyền của mình để xử lý trực tiếp, kịp thời các hành vi thông đồng dìm giá hoặc vi phạm nội quy bán đấu giá của những người tham gia đấu giá.

Đấu giá viên được trao quyền tự chủ rất cao trong việc điều hành cuộc bán đấu giá và chịu trách nhiệm chính về mọi hoạt động liên quan đến cuộc bán đấu giá mà mình điều hành. Các văn bản trong hoạt động đấu giá do đấu giá viên ký tên, đóng dấu và chịu trách nhiệm.

Bán đấu giá tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay - 7

2.2.4. Thủ tục bán đấu giá tài sản

- Trước tiên, đấu giá viên (người điều hành cuộc bán đấu giá) sẽ giới thiệu bản thân và người giúp việc, thông báo những quy định về cuộc đấu giá tài sản, công bố danh sách những người tham gia đấu giá và điểm danh, giới thiệu từng tài sản bán đấu giá, đề xuất giá khởi điểm, là giá thấp nhất có giá trị, việc trả giá dưới giá khởi điểm sẽ không được công nhận, mức chênh lệch của mỗi lần trả giá; trả lời các câu hỏi của người tham gia đấu giá tài sản.

- Sau đó, đấu giá viên yêu cầu người tham gia đấu giá trả giá. Sau mỗi lần người tham gia đấu giá trả giá đấu giá viên thông báo công khai về giá đã trả. Sự trả giá sẽ tăng dần cho đến khi giá đã trả tiến đến giá cuối cùng được thừa nhận và không còn ai tiếp tục tham gia trả giá. Khi đó người trả cuối cùng được quyền mua tài sản. Nếu người trả giá cuối cùng có mức giá thấp hơn giá khởi điểm thì xem như cuộc đấu giá không thành. Trong trường hợp đấu giá thành, đấu giá viên công bố người mua được tài sản.

- Người bán đấu giá có quyền xác định mức chênh lệch cho mỗi lần trả giá cho từng cuộc bán đấu giá cụ thể nhằm tránh tình trạng dây dưa, cấu kết dìm giá, mặt khác đảm bảo tính linh hoạt phù hợp với điều kiện thực tế của từng địa phương, tăng quyền chủ động cho người bán đấu giá tránh sự can thiệp không cần thiết vào quá trình thực hiện nghiệp vụ của người bán đấu giá, góp phần đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bán đấu giá tài sản.

- Khi tiến hành bán đấu giá, những người tham gia đấu giá tài sản sẽ trả giá nhưng không được thấp hơn giá khởi điểm. Sau khi những người tham gia đấu giá tài sản trả giá thì người điều hành bán đấu giá tài sản nhắc tới ba lần giá cao nhất, mỗi lần cách nhau ba mươi giây, nếu không ai trả giá cao hơn thì người trả giá cao nhất sẽ được mua tài sản đấu giá. Trong trường hợp nhiều người cùng trả một giá thì người tiến hành bán đấu giá sẽ tổ chức bốc thăm giữa những người đó và công bố ai là người mua tài sản đấu giá.

- Theo Điều 38 của Nghị định 17/2010/NĐ - CP thì tại cuộc bán đấu giá tài sản, người đã trả giá cao nhất mà rút lại giá đã trả trước khi đấu giá viên điều hành cuộc bán đấu giá công bố người mua được tài sản thì cuộc bán đấu giá vẫn tiếp tục và bắt đầu từ giá của người trả giá liền kề trước đó. Trong trường hợp không có người trả giá tiếp thì cuộc bán đấu giá coi như không thành. Người rút lại giá đã trả bị truất quyền tham gia trả giá tiếp và không được hoàn trả khoản tiền đặt trước. Khoản tiền đặt trước của người rút lại giá đã trả thuộc về tổ chức bán đấu giá tài sản.

Trường hợp người được mua từ chối mua tài sản sẽ bán cho người trả giá liền kề, người rút lại không mua mất tiền đặt trước cho bên có tài sản nếu giá liền kề và tiền lệ phí bằng hoặc cao hơn giá đã mua.

So sánh với quy định của Nghị định 86/NĐ-CP ngày 19 tháng 12 năm 1996 tại Điều 19 về việc từ chối mua thì không quy định việc bán tài sản cho người có mức giá liền kề. Nhưng cũng quy định thêm là phải được người bán

đấu giá đồng ý thì mới được từ chối, Điều 19 Nghị định 86/NĐ-CP ngày 19 tháng 12 năm 1996 quy định: "Sau khi văn bản đấu giá đã được lập mà người mua được tài sản từ chối mua thì phải được người bán chấp thuận, nhưng phải chịu mọi chi phí liên quan đến việc bán đấu giá", quy định này không khả thi trong thực tế và vi phạm nguyên tắc tự thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm trong giao lưu dân sự. Nếu người mua không mua, người bán không đồng ý mà người mua vẫn tiếp tục giữ ý định không mua tài sản thì không có bất kỳ cơ quan nào có thẩm quyền sử dụng biện pháp hành chính ép buộc người mua phải mua.

Về vấn đề trên, Nghị định 05/2005/NĐ-CP quy định trong trường hợp người điều hành cuộc bán đấu giá đã công bố người mua được tài sản bán đấu giá mà người này từ chối mua thì tài sản được bán cho người trả giá liền kề nếu giá liền kề ít nhất bằng giá khởi điểm. Nếu người liền kề không đồng ý mua hoặc giá liền kề thấp hơn giá khởi điểm thì cuộc bán đấu giá không thành và khoản tiền đặt trước của người từ chối mua thuộc về người có tài sản bán đấu giá. Tuy nhiên, quy định này đã bị lợi dụng trên thực tế, có tình trạng khách hàng cố tình trả giá rất cao, khi được tuyên bố là người mua được tài sản rồi thì lại từ chối mua để người liền kề mua được tài sản và hai bên chia nhau số tiền chênh lệch đó. Ngoài ra, khả năng cuộc bán đấu giá không thành là rất cao vì người trả giá liền kề có thể không đồng ý mua. Do đó, Nghị định 17/2010/NĐ-CP đã sửa đổi theo hướng quy định chế tài nghiêm khắc hơn đối với người từ chối mua và hạn chế sự thông đồng giữa một số người tham gia đấu giá. Cụ thể, người từ chối mua tài sản không được hoàn trả khoản tiền đặt trước, khoản tiền này thuộc về người có tài sản bán đấu giá. Đồng thời, tài sản chỉ được bán cho người trả giá liền kề nếu giá liền kề đó cộng với khoản tiền đặt trước ít nhất bằng giá đã trả của người từ chối mua (Điều 39). Quy định như trên sẽ góp phần bảo đảm quyền lợi của người có tài sản, không làm giảm giá trị của tài sản bán đấu giá và bảo đảm cuộc bán đấu giá thành.

Đối với cuộc đấu giá bằng hình thức bỏ phiếu, trong trường hợp từ chối mua nêu trên mà có từ hai người trở lên cùng trả giá liền kề, nếu giá liền kề đó cộng với khoản tiền đặt trước ít nhất bằng giá đã trả của người từ chối mua thì tài sản được bán cho một trong hai người trả giá liền kề đó, sau khi đấu giá viên tổ chức bốc thăm để chọn ra người mua được tài sản bán đấu giá. Trong trường hợp giá liền kề cộng với khoản tiền đặt trước nhỏ hơn giá đã trả của người từ chối mua thì cuộc bán đấu giá coi như không thành. Trong trường hợp người trả giá liền kề không đồng ý mua thì cuộc bán đấu giá coi như không thành. Khoản tiền đặt trước của người từ chối mua thuộc về người có tài sản bán đấu giá.‌

- Diễn biến của cuộc bán đấu giá tài sản được ghi vào biên bản bán đấu giá tài sản. Đấu giá viên, đại diện người tham gia đấu giá ký tên vào biên bản. Kết quả cuộc bán đấu giá tài sản được ghi vào sổ đăng ký bán đấu giá tài sản. Trong trường hợp đấu giá thành thì đấu giá viên lập văn bản bán đấu giá tài sản.

Tùy từng trường hợp bán đấu giá tài sản cụ thể hoặc theo yêu cầu của người có tài sản bán đấu giá thì tổ chức bán đấu giá tài sản mời tổ chức, cá nhân có liên quan đến tham dự cuộc bán đấu giá


2.3. KẾT THÚC PHIÊN BÁN ĐẤU GIÁ


2.3.1. Bán đấu giá thành

Văn bản đấu giá tài sản không những là căn cứ xác nhận việc mua bán, mà còn đóng vai trò là căn cứ pháp lý để chuyển quyền sở hữu đối với tài sản đấu giá theo quy định của pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu. Văn bản đấu giá được lập ngay tại cuộc bán đấu giá, kể cả trường hợp bán đấu giá không thành. Văn bản ghi rò kết quả của cuộc bán đấu giá, phải có chữ ký của đấu giá viên, đấu giá viên chịu trách nhiệm về việc đấu giá tài sản. Đối với văn bản đấu giá tài sản là bất động sản thì phải được cơ quan công chứng nơi có bất động sản chứng nhận.

Văn bản đấu giá tài sản thông thường được lập thành 05 bản, người bán đấu giá tài sản giữ một bản, người mua giữ một bản, người có tài sản bán đấu giá giữ một bản, cơ quan nơi đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản giữ một bản. Nếu tài sản là bất động sản thì cơ quan thuế giữ một bản.

Căn cứ vào văn bản xác nhận kết quả bán đấu giá. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền có trách nhiệm cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản cho người mua được tài sản bán đấu giá. Thời hạn cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản đã bán đấu giá được thực hiện theo quy định của pháp luật đối với loại tài sản đó. Những quy định này nhằm tăng tính chủ động cho người mua được tài sản đấu giá đồng thời nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có liên quan trong việc cấp giấy về quyền sở hữu, quyền sử dụng cho người dân.

Người mua được tài sản là người chủ động trong việc làm thủ tục chuyển quyền sở hữu. Người bán đấu giá tài sản chỉ cung cấp các dịch vụ phục vụ cho việc chuyển quyền sở hữu theo mức giá thỏa thuận. Người mua tài sản có quyền chấp nhận hoặc từ chối.

Người mua tài sản có quyền sở hữu tài sản kể từ khi nhận tài sản là động sản. Nếu tài sản là bất động sản thì quyền sở hữu phát sinh kể từ sau khi đăng ký trước bạ tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, nếu gặp rủi ro gây thiệt hại về tài sản trước thời điểm đăng ký quyền sở hữu thì người bán tài sản phải chịu rủi ro. Nếu người bán tài sản là cơ quan thi hành án hoặc người nhận cầm cố, thế chấp thì chủ sở hữu chịu rủi ro.

Tổ chức bán đấu giá tài sản không chịu trách nhiệm về giá trị, chất lượng của tài sản đã bán đấu giá, trừ trường hợp không thông báo đầy đủ, chính xác cho người tham gia đấu giá tài sản những thông tin cần thiết có liên quan đến giá trị, chất lượng của tài sản đã bán đấu giá theo hợp đồng bán đấu giá tài sản.

Sau khi tài sản đã được bán đấu giá, việc thanh toán tiền giữa người bán đấu giá và người chủ sở hữu tài sản bán đấu giá được thực hiện theo thỏa thuận trong hợp đồng ủy quyền bán đấu giá tài sản. Thời hạn, phương thức, địa điểm thanh toán tiền mua tài sản đã bán đấu giá do tổ chức bán đấu giá tài sản và người mua được tài sản bán đấu giá thỏa thuận trong hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Thời hạn, địa điểm giao tài sản đã bán đấu giá do tổ chức bán đấu giá tài sản và người mua được tài sản bán đấu giá thỏa thuận trong hợp đồng mua bán tài sản bán đấu giá, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Trong trường hợp bán đấu giá tài sản thành, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác, người có tài sản bán đấu giá thanh toán cho tổ chức bán đấu giá các khoản phí và chi phí sau đây: Phí bán đấu giá theo quy định của pháp luật về phí, lệ phí; chi phí thực tế, hợp lý cho việc bán đấu giá tài sản do người có tài sản bán đấu giá và tổ chức bán đấu giá tài sản thỏa thuận. Trên thực tế, mỗi địa phương khác nhau có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau nên việc quy định phí, lệ phí và các chi phí không thể cứng nhắc mà phải linh hoạt, phù hợp với đặc thù cho từng địa phương. Hiện nay, việc thu phí và lệ phí thì căn cứ theo Pháp lệnh Phí và lệ phí số 38/2001/PL-UBTVQH10 ngày 28/8/2001, Nghị định số 57/2002/NĐ-CP ngày 03/6/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh phí và lệ phí, Nghị định số 24/NĐ-CP ngày 06/3/2006 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 57/2002/NĐ-CP.

2.3.2. Bán đấu giá không thành

Đối với tài sản thi hành án, trong trường hợp bán đấu giá không thành thì cơ quan thi hành án có trách nhiệm thanh toán chi phí bán đấu giá tài sản cho tổ chức bán đấu giá tài sản. Đối với tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, trong trường hợp bán đấu giá không thành thì cơ quan tài

Xem tất cả 97 trang.

Ngày đăng: 28/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí