Với việc sử dụng ngôn ngữ hàm ẩn đắc dụng, giúp người đọc rút ra chân lí từ cách mô tả các hiện tượng mà nhà thơ đúc kết. Điều đó còn tạo ra sự tự nhiên, dung dị cho các câu thơ triết luận.
Ngôn ngữ thơ Trần Nhuận Minh đậm chất triết lí, nhưng đấy không phải là thứ ngôn ngữ biểu đạt tư tưởng đầy màu xám, mà thông qua nghệ thuật ngôn từ, tác phẩm của ông đã trở thành “cây đời mãi mãi xanh tươi” trong nền thơ ca dân tộc. Qua thứ ngôn ngữ mang tính triết lí, cuộc sống con người đã được khúc xạ bởi tâm hồn yêu đời đến khổ lụy của Trần Nhuận Minh, nên thơ ông mới máu thịt và mặn mòi vị nước mắt của đời.
3.1.3. Sử dụng các cặp từ trái nghĩa
Trần Nhuận Minh là nhà thơ ham triết luận, các triết luận được đưa ra thường là kết quả của cách nhìn đa chiều về hiện thực. Một trong những phương thức được sử dụng nhiều là luận giải vấn đề bằng hệ thống các cặp từ trái nghĩa.
Trong Bản Xô nát hoang dã, để hiểu về “tự do”, tác giả cắt nghĩa về từ “cầm tù”:
Đức vua rất khổ
Vì bị cầm tù trên ngai vàng Kẻ Hành Khất rất khổ
Vì được tự do đói rét
Để hiểu về “sống” đặt trong tương quan với “chết”:
Có thể bạn quan tâm!
- Người Lính Trong Thời Bình Đối Mặt Với Những Thách Thức Đầy Bất Ổn
- Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Thơ Trần Nhuận Minh – Một Thứ Ngôn Ngữ Dung Dị, Đời Thường
- Ngôn Ngữ Mang Tính Triết Lí Sâu Sắc
- Thơ Trần Nhuận Minh - 14
- Giọng Hài Hước, Mỉa Mai, Châm Biếm
- Thơ Trần Nhuận Minh - 16
Xem toàn bộ 140 trang tài liệu này.
Tôi Thứ nhất đã chết
Nằm duỗi thẳng trong quan tài Tôi Thứ Hai vẫn sống
Là linh hồn
Mà chẳng phải linh hồn…
(Bản Xô nát hoang dã)
Để hiểu về “cái ác” tác giả đặt song hành với “cái thiện”: “Kẻ ác đôi khi làm việc thiện/Đánh thuốc độc cả tiếng cười” (45 khúc đàn bầu của kẻ vô
danh), sự “sinh thành” trong sự “hủy diệt” (Bản Xônat hoang dã); để hiểu về “chiến tranh”, tác giả đặt nó bên cạnh “hòa bình” (Thím Hai Vui); để hiểu về “tốt” thì lí giải về “xấu”: “Cuộc đời toàn người tốt cả/Không ai xấu với ai đâu” (Với chị Hồng Tâm)…
Bên cạnh đó, Trần Nhuận Minh đặt quan hệ trái ngược cho các từ vốn không có ý nghĩa trái ngược:
Trời ơi! Vàng đến thế này Mà sao đen bạc vẫn đầy thế gian
(Trong đồng cỏ hoa vàng)
Cái giả dối, hào hoa của Ánh Trăng
Đâu có bị cái thuần phác
của Mặt Đất
Xua đuổi
Và
Cái Màn Đêm phản trắc đầy cạm bẫy
Đâu có bị cái Ánh Ngày chính trực anh minh ruồng bỏ…
(Bản Xônát hoang dã)
Các từ “Ánh Trăng”, “Mặt Đất”, “Màn Đêm”, “Ánh Ngày” được sử dụng như danh từ riêng, đặt trong thế đối lập. Cuộc sống bao giờ cũng có hai mặt của nó. Có cái giả dối song hành với cái thuần phác. Cái phản trắc đi cùng cái chính trực anh minh…như “Đêm” và “Ngày”, như “Ánh Trăng” và “Mặt Đất”…Nhận thức này, bắt nguồn từ cách nhìn vấn đề mang tính biện chứng cao.
Hay trong trường hợp khác:
Không gian đằm thắm
Huyền ảo mong manh Là lúc sinh ra
Thiên Thần và Quỷ Sứ
Là lúc Nhà Thơ và Kẻ Trộm
Cùng hào hứng bước ra ngoài
(Bản Xô nát hoang dã)
Những từ “Thiên Thần” và “Quỷ Sứ”; “Nhà Thơ” và “Kẻ Trộm” là những căp từ biểu hiện những mặt của xã hội được tác giả đặt trong mối quan hệ đối lập, trong sự thống nhất lịch sử.
Thơ Trần Nhuận Minh sử dụng rất nhiều các cặp từ trái nghĩa làm tăng khả năng diễn đạt, đem lại hiệu quả nhận thức mang tính đa chiều.
3.1.4. Sử dụng các kết từ lạ, độc đáo
Bất cứ thế giới nghệ thuật của một nhà thơ nào cũng đều được tạo dựng nhờ hệ thống hình ảnh riêng, độc đáo, là kết quả của cách kết hợp từ độc đáo, mới lạ.
Bằng cách kết hợp sau danh từ là một tính từ chỉ màu sắc, nhà thơ đã hữu hình hóa sự vật vốn vô hình, trừu tượng:
- Nhớ xưa gió biếc chân trời mong manh
- Ta ở đâu giữa mùa xưa xanh ngát
- Lá non tỏa màu em biêng biếc sáng
- Em hắt lên anh màu thu biếc người
- Những bí ẩn xanh rờn/Dào dạt tuôn chảy từ trời cao
Hoặc hư ảo hóa những sự vật cụ thể:
- Giọt mưa xuân xanh quá/Bay ngang trời Hạ Long
- Gió đã xanh thổi lên từ Hoa Cỏ
- Chiều nghiêng một sắc vô tình
- Ngoài làn mây trắng bay ở ngang trời và trái tim xanh
đập trong lồng ngực/Anh chẳng còn gì hết
- Đồng xa, xanh mảnh trăng gầy treo nghiêng
Với cách kết hợp từ này, thế giới hình ảnh trong thơ ông vừa thực vừa hư ảo, nó không đơn giản là thế giới khách quan mà trở thành thế giới tâm tưởng, hoài niệm. Vạn vật được nhuộm bởi sắc xanh đến nao lòng: “A ha! Trời xanh,
nước xanh, núi xanh, ta xanh”. Màu xanh trở thành màu chủ đạo trong thế giới nghệ thuật thơ Trần Nhuận Minh, mang ý nghĩa biểu tượng.
Nhà thơ phá vỡ tư duy hình ảnh, ấn tượng quen thuộc bằng cách thay đổi trật tự từ của lôgíc ngôn ngữ thông thường. Nói cách khác nhà thơ có một phương pháp chế tác ngôn ngữ rất độc đáo. Chúng ta rất hay bắt gặp cách diễn đạt đưa thành phần định ngữ lên trước danh từ, hoặc thành phần bổ ngữ lên trước động từ. Nhà thơ miêu tả hình ảnh khu vườn xưa:
- Buồn xưa - vàng vạt nắng rơi
Nhớ xưa - gió biếc chân trời mong manh
- Đồng cỏ xanh non
Run rẩy vài ba hoa lê trắng Bến Tầm Dương canh khuya Vàng lá ngô đồng rụng
- Vĩnh biệt nhé, ráng chiều côi cút gió Ta một mình với Đắng Mê Tơi
Nơi ấy, gió, nắng, hoa, lá…của hiện tại nhưng ẩn chứa một nỗi niềm quá khứ. Con mắt nhìn nhà thơ không hướng đến sự vật trong thời gian khách quan mà cảm nhận ở thời gian hồi tưởng, kí ức nhờ kết cấu đảo ngữ. Từ đó có cái được đặc tả ở đây không phải hình ảnh mà là dòng cảm xúc của chủ thể trữ tình.
Cách kết cấu câu như vậy tạo nên những phản tiền đề có tính lôgíc cao khiến người đọc phải suy ngẫm, phải nhận thức lại.
3.1.5. Sử dụng các biện pháp tu từ
* Biện pháp nhân hóa:“Nhân hóa còn gọi là nhân cách hóa, là biện pháp tu từ trong đó người ta lấy từ ngữ biểu thị thuộc tính, dấu hiệu con người để biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của đối tượng không phải của con người nhằm làm cho đối tượng miêu tả trở nên gần gũi, dễ hiểu, đồng thời làm cho chủ thể phát ngôn có khả năng bày tỏ kín đáo tâm tư, thái độ của mình”[35.63].
Bằng sự liên tưởng và tưởng tượng phong phú, Trần Nhuận Minh đã đem đến cho thế giới sự vật thơ ông sức sống nội tại qua những biện pháp nhân hóa tài tình. Cảm nhận về không gian thật độc đáo:
Giữa khoảng ngập ngừng của vũ trụ
Từ láy “ngập ngừng” là từ láy tượng hình gợi cảm xúc, tái hiện được một cách sinh động, độc đáo khoảng không gian nơi giao hòa của hai thế giới, nửa vươn tới cõi tiên giới, nửa vương bụi trần. Đây là một động từ trạng thái được sử dụng như một tính từ theo phương thức chuyển loại từ làm tăng giá trị biểu đạt, sức khơi mở của hình ảnh thơ.
Trong không gian giăng mắc những sợi tơ tình, vạn vật như đã phải lòng
nhau:
Hàng cây lơ mơ thức ngủ Trong tấm áo choàng cô dâu Đến nỗi những ngôi nhà cổ Đêm nào cũng phải lòng nhau
(Đêm trắng)
Nhân hóa đem đến sự lạ hóa cho hình ảnh thơ quen thuộc. Không còn là
trăng soi dưới dòng sông mà là “Đánh đắm cả trời sao” bằng sự im lặng không tiếng của mình. Dường như sông và trăng là một “cặp tình nhân” của đêm vắng.
Cảnh mang chứa tình bởi mọi cảnh vật đều đón nhận bằng con người tinh thần của nhà thơ. Ta bắt gặp ở thế giới ấy một “vầng trăng gầy, ngẫm ngĩ khuyết đêm khuya”, một “áng mây trinh nữ”, “chập chờn thức ngủ giữa rừng thông”, “ngơ ngác” giữa cơn mưa…, một “giọt mưa buồn gõ xám mái nhà Vua”, âm thanh tiếng “ngẹn ngào của những ngôi sao”, âm thanh “tiếng hạc thảng thốt” vọng về…Con người tinh thần đã thổi linh hồn vào cho vạn vật trong thế giới mà nó chiếm lĩnh. Ngay cả thời gian cũng được hữu hình hóa nhờ nhân hóa: “một nửa mùa thu nghiêng bóng xuống khoang thuyền”.
Biện pháp nhân hóa là tu từ tất yếu nhà thơ phải sử dụng. Hình tượng nghệ thuật trong thơ ông phong phú, con ve với lí lẽ thời gian mùa hè, con chim từ bỏ tự do vì nếp quen, một con chó trung thành đến hơi thở cuối cùng…Khi vươn tới tầm cao triết luận, các hình ảnh thơ của ông có ý nghĩa biểu tượng sâu sắc, ví như các tác giả miêu tả “cỏ” bằng các tính từ chỉ định tính con người “bao dung”, “dịu dàng”, “long đong”, “dầu dãi”…Có thể nói nhân hóa tạo sự sống cho thế giới thơ Trần Nhuận Minh, là một phương thức hiệu quả thể hiện hình tượng nghệ thuật.
* Biện pháp so sánh: So sánh là biện pháp tu từ quen thuộc trong văn học Việt Nam, đặc biệt là xuất hiện nhiều trong ca dao, dân ca dân gian, là biểu hiện của lối tư duy hình tượng. Trên cơ sở đối chiếu hai đối tượng khác loại của thực tế khách quan không hoàn toàn đồng nhất mà chỉ chung nhau một nét nghĩa nào đó để diễn tả bằng hình ảnh một lối tri giác mới mẻ về đối tượng. So sánh cũng là một nghệ thuật tu từ quen thuộc trong thơ Trần Nhuận Minh.
Mô hình phép so sánh trong thơ ông rất đa dạng. Nhà thơ lấy cái cụ thể đối chiếu cái cụ thể tạo sự gần gũi cho hình ảnh:
- Núi sông như chiếc quạt xòe trong tay
- Những câu thơ mỏng tựa cánh chuồn Ngàn năm bay ngược bão
Hoặc lấy cái cụ thể làm rõ cái trừu tượng:
- Giao thừa đi như cô gái chưa chồng
Đẹp nức nở những muộn màng đắng chát
- Cái lạnh như lưỡi cưa Xẻ chéo tầng đá xám
Để mờ hóa cảm xúc của chủ thể trữ tình về thế giới, Trần Nhuận Minh còn lấy cái trừu tượng để soi chiếu cái cụ thể:
- Tiếng chuông như hồn người Cô đơn và thăm thẳm
Có khi nhà thơ lấy cái trừu tượng so sánh với cái trừu tượng, nhưng lại có khă năng tạo hình khối cho cảm xúc:
Nỗi gì khắc khoải không yên
Đập như giọt đắng trong tim thế này
Thậm chí trong một câu thơ, nhà thơ có thể sử dụng chuỗi so sánh tạo chuỗi hình ảnh liên tưởng:
- Đất đã tự quên dấu tích oai hùng để tiếng chim như chuỗi bạc long lanh, rập rờn sông núi
- Núi như người đàn bà đang yêu
Và sông bằng như một mảnh thư tình bị bóc trộm
Nhờ so sánh hình ảnh mà trong thơ Trần Nhuận Minh có sự kết nối độc đáo, mới lạ:
- Mặt trời trắng và lành như một đồng xu nhỏ Sáng thinh không, chiếc lá như giọt lửa
Nhờ có so sánh, Trần Nhuận Minh nắm bắt được hồn cảnh và hồn người trong sự giao hòa làm một trong không gian tâm linh vùng đất Yên Tử:
Chợt ngân một tiếng chuông Sắc cỏ bỗng hoe vàng
Như có ai lững thững
Trong bóng chiều lang thang
(Chiều Yên Tử)
* Biện pháp Ẩn dụ: Ẩn dụ là sự định danh thứ hai cho sự vật, mang ý nghĩa hình tượng dựa trên sự tương đồng hay giống nhau giữa các khách thể. Biện pháp ẩn dụ được Trần Nhuận Minh sử dụng như một công cụ nghệ thuật đắc lực trong xây dựng các hình ảnh biểu tượng như hoa cỏ, gió heo may, mây, Đấng Mê Tơi, Đấng Âm U…
Ngoài ra ẩn dụ còn được ông sử dụng như một công cụ quan trọng trong quá trình làm lạ hóa hình ảnh cũ. Nói cách khác, nhờ ẩn dụ chuyển đổi cảm giác,
sự vật vốn cảm nhận bằng giác quan này được chuyển sang cảm nhận bằng giác quan khác. Thời gian nghệ thuật trong thơ Trần Nhuận Minh được cảm nhận có đường nét: “Năm tháng cuộn trên sừng bò khắc khoải”, có màu sắc: “Ta ở đâu giữa mùa xưa xanh ngát”. Sự vật vô hình được hình khối hóa thành từng giọt: “Giọt trăng cũ tan trong hồn cúc dại”, “Lá phong buồn ven sông/Khẽ rơi một giọt vàng”, “Tiếng chim rơi ngược bóng núi sông Đà”, “tiếng sếu rơi vào vạt áo khuya”…Trần Nhuận Minh đã “cởi trói giác quan” để đón nhận sự tác động của hiện thực. Trong cơn gió nồm thấy được mùi vị mặn nồng của biển: “Biển ập vào cơn gió nồng mặn chát”, trong mái phố thấy nỗi buồn của mùa đông còn sót lại: “Mái phố sẵm nỗi buồn mùa đông rớt/Chân ta vấp bóng chiều ẩm ướt”, lắng nghe âm thanh tiếng thở dài của núi trong cái trong cái ướt lạnh của buổi sương chiều: “Tiếng thở dài của núi Tản viên/Làm ướt đẫm sương chiều”…Như vậy, từ sự kết hợp và chuyển đổi các yếu tố cảm giác khác nhau: màu sắc trở nên có đường nét, hình khối; âm thanh thành màu sắc; cái vô hình thành vật thể hữu hình…,Trần Nhuận Minh đã đem đến những hình ảnh thơ độc đáo, tạo khả năng liên tưởng phong phú, là sự thể hiện cho những khám phá thế giới bằng cộng hưởng nhiều giác quan của nhà thơ.
3.2. Một tiếng thơ đa giọng điệu
Theo từ điển thuật ngữ văn học, giọng điệu là “thái độ tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ, xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm”[48.112].
Giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học, là yếu tố hàng đầu tạo nên phong cách riêng của mỗi nhà văn, tạo nên sự khác nhau giữa các nhà văn và sức hấp dẫn cho tác phẩm. Giọng điệu là yếu tố đặc trưng của hình tượng tác giả. Giọng điệu của của tác phẩm ở mức độ nào đó phụ thuộc vào đặc điểm miêu tả cũng như cách cảm nhận về chúng. Chỉ có những nhà văn thực