Thơ Trần Nhuận Minh - 14


sự có tài năng mới có giọng điệu riêng. “Đó chính là đặc điểm chủ yếu của một tài năng sống độc đáo” (M.B.Khrapchencô).

Nhà văn tài năng phải có giọng điệu riêng và được thể hiện trong toàn bộ sự nghiệp sáng tác. Nhưng giọng điệu biểu hiện như thế nào? Căn cứ vào đâu để có thể nhận diện được chính xác giọng điệu của một tác phẩm, một tác giả?...Vấn đề này không đơn giản bởi trong tác phẩm, giọng điệu không phải là phép cộng của câu chữ mà nó được tạo thành do sự cộng hưởng, kết hợp hài hòa của nhiều yếu tố ngôn ngữ cùng sự thăng hoa cảm xúc của chủ thể.

Là một nhà thơ trưởng thành từ những năm kháng chiến chống Mĩ và sáng tác đến tận bây giờ, cho nên Trần Nhuận Minh đã tạo cho mình một tiếng thơ đa giọng điệu: có giọng ngợi ca, khẳng định; có giọng day dứt, hoài nghi; có giọng xót xa, thương cảm; có giọng hài hước, mỉa mai, châm biếm. Tất nhiên, trong từng giai đoạn lịch sử, từng tác phẩm cụ thể, nó có những biểu hiện khác nhau, gắn với những cung bậc cụ thể của tình cảm, những tình điệu thẩm mĩ khác nhau. Người đọc có thể nhận ra chất giọng chủ yếu qua từng cấp độ khác nhau của văn bản nghệ thuật ngôn từ. Có khi nó thấm sâu vào từng câu chữ và lan tỏa khắp bài thơ, có lúc lại ngân vang qua những lời đề từ, cũng có khi nó lại toát lên từ âm hưởng chung của những cuộc đời, những số phận cụ thể được phản ánh trong tác phẩm. Những biểu hiện sinh động của chất giọng ấy có thể tìm thấy trong hầu hết các tập thơ của Trần Nhuận Minh.

3.2.1. Giọng ngợi ca, khẳng định

Trong những năm của thập kỉ sáu mươi, bẩy mươi, cả miền Bắc vừa chiến đấu vừa bước vào thời kì quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội với tất cả vẻ đẹp quyến rũ, với những hy vọng tràn trề về một tương lai rực rỡ, sán lạn. Phần lớn các tác phẩm ra đời thời kì này đều miêu tả những bức tranh hiện thực đẹp đẽ và tươi tắn với chỉ một sắc hồng. Tinh thần quyết tâm đánh giặc, không khí hồ hởi của con người và cuộc sống tạo nên giọng điệu ngợi ca, khẳng định. Và


giọng điệu thơ Trần Nhuận Minh cũng nằm trong âm hưởng chung của dàn đồng ca đó.

Chất giọng ngợi ca, khẳng định được vận dụng, sử dụng phổ biến như một phương tiện chủ đạo nhằm tôn vinh đất nước, nhân dân anh hùng, ngợi ca những con người lao động mới, cuộc sống mới:

Tôi sống trong thành phố của tôi Thành phố một ngàn năm gan góc Kiên trì giữ gìn những tinh hoa dân tộc Đây là Việt Nam

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 140 trang tài liệu này.

Việt Nam đến tận cùng

(Thành phố bên này sông)

Thơ Trần Nhuận Minh - 14

Trong Mùa xuân thứ nhất, mùa xuân đầu tiên của đất nước thống nhất vẹn tròn, Trần Nhuận Minh đã ghi lại được suy nghĩ của một người cha trên đường đánh giặc nói với con bằng một giọng lạc quan tin tưởng:

Con ơi, cha đâu phải là người thơ mộng Lòng vẫn rưng rưng khi nghĩ đến mai sau

Của con, dải than đen dài rộng dưới đất sâu Của con chín khúc sông Hồng phù sa cuộn đỏ

Của con, ba ngàn cây số biển khơi trắng trời sóng gió…

Giọng ngợi ca thấm đẫm tinh thần nhân đạo cộng sản quả có sức cổ vũ, động viên con người vươn lên chủ động giành lấy thành quả bằng chính bàn tay lao động sáng tạo của mình:

Tổ quốc mình bát ngát cánh đồng xưa Đang nuôi lớn những vùng công nghiệp Làm thật nhiều than, đấy là điều tâm huyết Đang gọi trong tim tôi hôm nay

(Trên tầng cao 380)


Đậm đà và sâu sắc trong chất giọng ngợi ca, đằm thắm, ân tình vẫn là những bài thơ viết về vùng đất bên bờ Vịnh Hạ Long:

Đất sẽ lên dần vị ngọt

Và một phần Hạ Long sẽ hóa thành đồng Màu đẹp nhất vẫn là màu lúa chín

Có đảo xa sắc chiều buông tím Có cánh buồm hồng mặt trời lên

(Làm thủy lợi ở giáp khẩu)

Hát nữa em, giữa bốn bề tiếng sóng

Cánh buồm ra khơi, mái chèo vào lộng Đêm nay em có buông lưới chi đâu

Anh ngồi nghe như con cá mắc câu

(Nghe hát dân trài trên biển đảo Quan Lạn)

Cũng là giọng ngợi ca, khẳng định về con người mới, cuộc sống mới, nhưng Trần Nhuận Minh không chạy theo các sự việc, không lấy các biến cố, các sự kiện cách mạng làm mục đích phản ánh. Hiện thực cuộc sống lao động, xây dựng trong thế đi lên với không khí sôi nổi, khẩn trương, với sự đổi mới từng ngày, từng giờ trên gương mặt đất nước, quả có chất men say là ngòi bút của Trần Nhuận Minh rung động một niềm say mê tha thiết với cảnh vật và con người lao động:

Những buổi tối ở đây Nhà sáng xanh đèn mỏ Người chồng lo cho vợ

Chọn giống, bón đòng đòng Người vợ lo cho chồng

Bữa ngon ngày mở vỉa Niềm vui và gian khổ Chia đều cho hai nơi


(Làng ven mỏ)

Có khi cần khẳng định, giọng độc thoại cũng được cất lên một cách vững vàng, mạnh mẽ. Nhà thơ độc thoại mà như đối thoại với tất cả những người thợ. Lời nói với mình song cũng là lời nói với đời:

Tôi sống ở đây sẽ chết ở đây như một Người Thợ Ngày đêm trút linh hồn vào chữ…

Từng giọt mồ hôi đều dâng hiến cho Đời Từng chữ trong câu đều vang động hồn Người

(Đá cháy)

Thơ Trần Nhuận Minh còn có cả chất giọng đanh thép, hào sảng, sắc mạnh, làm cho tiếng thơ như có sức mạnh hơn trước sức mạnh của kẻ thù:

Đêm nay anh đánh đâu những người dũng sĩ Diệt viện An Viên hay phá bốt Châu Thành Đất nước này quyết không dung giặc Mĩ Hàng loạt đồn nát vụn dưới chân anh

(Gửi Rạch Giá)

Có lúc tự nhủ mình, giọng độc thoại lại trở về những lời thủ thỉ, tâm

tình:


Có hạnh phúc nào bằng về cùng đồng đội Đêm chờ thù, nghe gió thổi bờ tre…

(Gửi Rạch Giá)

Nhìn chung, giọng điệu ngợi ca, khẳng định trong thơ Trần Nhuận Minh

mang âm hưởng sử thi, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống đang trên đà canh tân đất nước, ca ngợi những con người lao động ngày đêm cống hiến sức lực cho đời và khẳng định một niềm tin bất diệt vào sự trường tồn của dân tộc. Có thể nói, đấy là giọng điệu chủ đạo của thơ ông trước năm 1975

3.2.2. Giọng day dứt, hoài nghi


Sau năm 1975, đời sống thế sự thời hậu chiến và những biến động to lớn của đời sống kinh tế chính trị trong nước và trên thế giới đã có những tác động trực tiếp đến thơ Trần Nhuận Minh. Đối mặt với hiện thực mới, thơ Trần Nhuận Minh có nhiều thay đổi. Hình ảnh về đời sống, con người trong các mối quan hệ xã hội được nhìn nhận thực tế hơn, thô ráp và trần trụi như chính sự tồn tại của nó. Sự đảo lộn, lung lay của những giá trị tinh thần cũng được nhà thơ đề cập…Hợp với nội dung này là giọng điệu trăn trở, suy tư, day dứt, hoài nghi…

Nhà thơ luôn trăn trở, lo lắng khi quan sát thấy sự bất bình đẳng phân hóa giàu nghèo vẫn còn tồn tại trong xã hội hiện đại, và suy ngẫm về tiền đồ tương lai của đất nước bằng giọng day dứt, hoài nghi:

Lí do nào, để giận

Nỗi niềm gì để thương Một mai nước có giặc

Biết ai ra chiến trường…

(Họp phố)

Và có một cái nhìn chân thật, từng trải về sự bất bình thường, ẩn chứa mâu thuẫn có ngay trong những cảnh huống đời thường, thực trạng xã hội không lí tưởng, đầy khiếm khuyết:

Trời ơi! vàng đến thế này

Mà sao đen bạc vẫn đầy thế gian…

(Trong đồng cỏ hoa vàng)

Nhà thơ lo âu thấy “cái tập thể đẻ non biến thành cái cá nhân còi cọc”. “Trai làng phóng @ như điên, đầu cạo trọc” không thể là biểu hiện của sự giàu sang, thịnh vượng. Cái hiện thực hôm nay, nhiều điều phấn chấn, nhưng đôi khi sao lại có tiếng khóc ở bên trong:

Tổ tiên đã chết ở đây

Những gò đống cỏ xanh, nay đã ủi đi rồi San sát vũ trường, sân gôn, quán nhậu


Còn sót lại một cách cò trắng mong manh Thấp thoáng bay

Trong ráng đỏ chiều hôm, không tìm ra chỗ đậu…

Song hành với nhận thức về sự mong manh, hư ảo của thế giới lí tưởng, nhà thơ cảm thấy mất chỗ đứng, mất niềm tin, thậm chí luôn lo âu, bất ổn trước dự cảm về tương lai:

Sự đời bao rắc rối

Phải trái tính sau đây Lòng mình thì nhàu nát Kinh sách thì thơ ngây

(Gửi bác Vương Liên)

Cuộc sống đời thường luôn chứa đựng những tình huống có vấn đề mà mọi biểu hiện bề ngoài chỉ là hình thức, là lớp vỏ bọc che đậy bên trong:

Bạn nói rồi cười ngơ ngác

Bâng khuâng gương mặt hao gầy Giọt lệ của người đứng tuổi

Biết rơi vào cõi nào đây…

(Lời một người bạn có cợ được chọn đi làm ô sin)

Chủ thể trữ tình cũng mong muốn đạt tới chân lí theo tinh thần hướng đạo tích cực để cải thiện bản thân và cải thiện thế giới nhân sinh nhưng lại có cảm giác bất lực:

Ta bàng hoàng trước Cái Không Thể Biết Đang nhào nặn ta trong cõi vô cùng

Chả nhẽ mỗi chấm người mong manh trên trái đất Lại là biểu hiện mơ hồ huyền bí của không trung…

(Vô thức)


Con người luôn vận động thuận chiều với sự vận động của xã hội và dòng chảy của thời gian theo hướng tuyến tính, nhưng có lúc con người hãy tìm lại, nhận thức lại chính mình, và vẫn còn cảm thấy hoài nghi:

Hư ảo hỡi! Giữa vô cùng còn mất Ta là ai? Thăm thẳm có Ta không?

Thông qua việc miêu tả trực tiếp các hiện tượng xã hội, số phận con người cụ thể, nhà thơ khái quát lên một phạm vi hiện thực cuộc sống đa chiều, thuận nghịch về hạnh phúc của những người phụ nữ bằng giọng điệu day dứt, hoài nghi.

Với Mợ Hữu:

Mợ đáng thương hay là đáng trách Trời ơi tách bạch làm chi

Dòng sông muôn đời vẫn thế Đục trong thì cứ trôi đi

Còn Dì Nga:


Chả biết dì sung sướng Hay là dì khổ đau

Nửa đời…Ừ sao nhỉ

Họ không tìm thấy nhau…

Giọng điệu day dứt hoài nghi đã được lồng vào trong cảm xúc của chủ thể trữ tình để có cơ giãi bày nỗi niềm thế sự về bức tranh hiện thực cuộc sống:

Chợt thấy muôn trùng cây cỏ

Bảng lảng nhuốm màu chiêm bao Sự thế buồn vui lẫn lộn

Nào ai hiểu được vì sao…

(Cô Bổng)

Và lắm lúc cũng phải thảng thốt, rùng mình trước sự xoay vần của thời

thế:


Lòng băn khoăn không không dứt Bỗng thèm một chén trà

Cuối trời tia nắng quái Cháy kinh hoàng sau ta

(Thăm bạn)

Tìm hiểu thế giới nghệ thuật thơ Trần Nhuận Minh, người đọc sẽ thấy xuất hiện cái tôi nhạy cảm luôn day dứt, hoài nghi trước môi trường và nhân cách con người, trước những tồn tại còn đầy khiếm khuyết của xã hội hiện tại. Sự hình thành môi trường sống mà ở đó mọi điều kiện có thể xẩy ra, họa phúc khôn lường, người tốt chưa chắc đã gặp lành, kẻ quyền chức đâu bởi tài năng, người cống hiến cả đời tay trắng trở về, mọi lời hứa chỉ là cơn gió thoảng, con người lạnh lùng, vô cảm với nỗi đau của những mảnh đời bất hạnh xung quanh trở thành nỗi nhức nhối khôn tả. Tất cả những yếu tố đó là tiền đề làm nên giọng điệu day dứt, hoài nghi trong sáng tác của Trần Nhuận Minh.

3.2.3. Giọng xót xa, thương cảm

Nhà văn T. Sê-Khốp đã khẳng định: “Một nhà văn chân chính phải là nhà nhân đạo trong cốt tủy”. Trái tim chân thành, thương mến của nhà văn được bộc lộ qua giọng điệu xót xa, thương cảm. Trần Nhuận Minh không phải là một ngoại lệ.

Giọng điệu chủ đạo trong thơ Trần Nhuận Minh (đặc biệt là giai đoạn sau năm 1986) là giọng xót xa, thương cảm. Chất giọng này gắn với cảm hứng nhân văn trong sáng tác của nhà thơ. Nó gắn với âm hưởng chủ đạo là nói về nỗi đau và những ưu tư của người viết trước những bể dâu của số phận và nhân tình. Đi vào thân phận những con người bất hạnh, nhà thơ không nén nổi tiếng thở dài sâu tận bên trong như thế, ông đau với nỗi đau nhân tình thế thái, ông buồn trước những cảnh đời cơ cực, éo le…Vì thế, giọng điệu xót xa, thương cảm lắng đọng trong từng câu, từng chữ, ẩn trong nỗi thống khổ của những kiếp người bất hạnh. Giọng xót xa, thương cảm là một dụng công trong ý đồ nghệ thuật để Trần

Xem tất cả 140 trang.

Ngày đăng: 20/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí