Dạy Học Ngữ Văn Định Hướng Năng Lực Học Sinh

- Nghiên cứu về tổ chức hoạt động dạy học theo định hướng phát triển năng lực

Năm 2014, các tác giả Đặng Quốc Bảo và Nguyễn Sĩ Thu [9], tổ chức dạy học theo định hướng phát triển NL là giúp người học thấu hiểu “Học để làm gì - Học cái gì” để có NL đích thực; đồng thời bồi dưỡng cho người học cách “Học hiệu quả” để có NL bền vững. Bên cạnh đấy, các tác giả còn chỉ ra những NL tư duy nền tảng cần trang bị cho người học trong quá trình dạy học, đó là: Tư duy nguyên tắc (thông thạo một lĩnh vực chính và ít nhất một lĩnh vực chuyên môn); Tư duy tổng hợp (biết hợp nhất các ý kiến chuyên môn khác nhau thành một tổng thể, gắn tổng thể này với tổng thể khác); Tư duy sáng tạo (biết khám phá và làm rõ những vấn đề, những đòi hỏi của thực tiễn); Tư duy tôn trọng (nhận biết và thấu hiểu sự khác biệt giữa các dòng tư tưởng); Tư duy đạo đức (hoàn thành trách nhiệm là một người lao động).

Một số tác giả khác lại cho rằng, để tổ chức hiệu quả hoạt động dạy học theo định hướng phát triển NL cần chú ý đến việc sử dụng các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, tạo điều kiện tốt nhất cho người học thực hành, vận dụng kiến thức trong những tình huống đa dạng. Nếu trong quá trình dạy học, người dạy không tổ chức được các hoạt động học tập phù hợp cho người học thì không thể hình thành được ở họ những NL mong muốn - điều mà dạy học theo tiếp cận phát triển NL hướng tới (dẫn theo [21]).

- Nghiên cứu về dạy học môn Ngữ Văn theo định hướng phát triển năng lực người học.

Năm 2014, tác giả Trần Đình Sử đã nghiên cứu về vấn đề đổi mới phương pháp dạy học văn. Xuất phát từ thực trạng dạy học môn Ngữ văn tác giả Trần Đình Sử đã tìm nguyên nhân và từ đó đưa ra giải pháp: Đổi mới về quan điểm dạy học, tiến trình dạy học, CNTT và đổi mới hình thức kiểm tra, đánh giá (viết và nói) (dẫn theo [20]).

Năm 2015, tác giả Đỗ Ngọc Thống đã có những công trình nghiên cứu: Chương trình Ngữ Văn trong nhà trường phổ thông Việt Nam và hướng phát triến sau 2015; Đổi mới căn bản toàn diện chương trình Ngữ Văn; Đổi mới đánh giá kết quả học tập môn Ngữ Văn. Trong các công trình này, tác giả Đỗ Ngọc Thống đã nêu ra những quan niệm khoa học về Năng lực và đánh giá năng lực. Đối với môn Ngữ văn tác giả đã khái quát hai nhóm năng lực cơ bản của bộ môn, đó là: Năng lực tiếp nhận văn bản và Năng lực tạo lập văn bản. Đồng thời đã nêu ra những định hướng cơ bản về đánh giá năng lực môn Ngữ văn. Theo đó, đánh giá chất lượng học tập môn Ngữ văn theo ĐHNL cần

có những phương thức cụ thể và cần chú trọng đến đánh giá các kĩ năng của học sinh. Bên cạnh đó cần nhận thức rõ sự khác biệt giữa đánh giá NL với đánh giá nội dung. Tác giả Đỗ Ngọc Thống cũng nêu rõ những mục tiêu chính và quan trọng của đánh giá chất lượng môn Ngữ văn theo ĐHNL. Có thể thấy, đây là những quan niệm, những đường hướng mang tính khái quát, vĩ mô của việc đổi mới đánh giá chất lượng học tập môn Ngữ Văn ở THCS. Bên cạnh đó cũng đã đưa ra được những giải pháp rất cụ thể để hoạt động đánh giá theo năng lực có hiệu quả thiết thực [33].

Ngoài ra, còn một số luận văn, luận án nghiên cứu vấn đề quản lý quá trình sư phạm, dạy học, quản lý hoạt động dạy học theo ĐHNL cho học sinh đã được bảo vệ, cụ thể như:

Luận văn chuyên ngành Quản lý giáo dục “Các giải pháp đổi mới quản lý dạy học thực hành theo tiếp cận năng lực thực hiện cho sinh viên sư phạm kỹ thuật” của tác giả Nguyễn Ngọc Hùng, Trường Đại học Quốc Gia Hà Nội, năm 2006 [20]. Đổi mới giáo dục là yêu cầu cấp bách của Đảng và Nhà nước ta, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Chính vì vậy công trình này là một đóng góp to lớn trong việc đưa ra đổi mới giáo dục theo hướng thực hành, trải nghiệm cho sinh viên, giúp sinh viên tăng sự tương tác trong quá trình học tập. Trong đó tác giả đã nhấn mạnh việc dạy học theo hướng thực hành để phát triển năng lực cho sinh viên, để đáp ứng ngày càng cao các yêu cầu của nhà tuyển dụng trong giai đoạn hiện nay.

Luận văn chuyên ngành Quản lý giáo dục“Quản lí hoạt động dạy học môn Ngữ văn của trưởng bộ môn ở một số Trung tâm giáo dục thường xuyên tình Hải Dương” của tác giả Trịnh Thị Kim Dung, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 2010 [14]. Công trình đã đưa được các khái niệm chung về dạy học, quản lý hoạt động dạy học môn ngữ văn... Tác giả đã phân tích hạn chế và bất cập trong việc xây dựng kế hoạch, phát triển chương trình học; tổ chức, chỉ đạo cũng như công tác kiểm tra, đánh giá hoạt động dạy học môn Ngữ văn của tổ trưởng tổ chuyên môn. Trên cơ sở đó đã đề xuất được các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả lí hoạt động dạy học môn Ngữ văn của trưởng bộ môn ở một số Trung tâm giáo dục thường xuyên tình Hải Dương.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

Luận văn chuyên ngành Quản lý giáo dục “Quản lí hoạt động dạy học phát triển năng lực học sinh ở trường trung học phổ thông B Phủ Lý - tỉnh Hà Nam” của tác giả Nguyễn Thị Dung, Học viện Quản lý giáo dục, năm 2014 [13].Tác giả đã có đóng góp quan trọng trong việc nghiên cứu lý luận về hoạt động dạy học theo huớng PTNL và phân tích thực trạng quản lí hoạt động dạy học PTNL học sinh ở trường trung học

phổ thông B Phủ Lý - tỉnh Hà Nam. Trên cơ sở các giải pháp mà tác giả đề ra, đã góp phần nâng cao chất lượng hoạt động dạy học tại trường trung học phổ thông B Phủ Lý - tỉnh Hà Nam nói riêng và các trường THPT tại Việt Nam nói chung.

Quản lý dạy học môn Ngữ văn theo định hướng năng lực học sinh ở các trường trung học cơ sở thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh - 3

Luận án giáo dục học“Dạy học theo tiếp cận năng lực thực hiện ở các trường đại học sư phạm kĩ thuật” của tác giả Cao Danh Chính, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 2012 [12].

Như vậy, mặc dù nguồn tài liệu xuất bản liên quan đến đề tài khá phong phú, đa dạng, giải quyết nhiều khía cạnh khác nhau của vấn đề, tuy nhiên số công trình đề cập trực tiếp đến quản lý dạy học môn Ngữ văn theo ĐHNL cho học sinh ở trường THCS không nhiều. Do đó, tác giả lựa chọn đề tài: “Quản lý dạy học môn Ngữ văn theo định hướng năng lực học sinh ở các trường Trung học cơ sở thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh” để nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn trong các nhà trường.

1.2. Một số khái niệm cơ bản của đề tài

1.2.1. Quản lý

Quản lý là một dạng lao động đặc biệt, điều khiển các hoạt động lao động, nó có tính khoa học và nghệ thuật cao, nhưng đồng thời nó là sản phẩm có tính lịch sử, tính đặc thù của xã hội. Khi đề cập đến cơ sở khoa học của quản lý, C. Mác viết: “Bất cứ lao động nào có tính xã hội, cộng đồng được thực hiện ở quy mô nhất định đều cần ở chừng mực nhất định sự quản lý, giống như người chơi vĩ cầm một mình thì tự điều khiển còn một dàn nhạc thì phải có nhạc trưởng” [11].

Như vậy, có thể hiểu lao động xã hội và quản lý không tách rời nhau. Khi lao động xã hội đạt đến một quy mô phát triển nhất định thì sự phân công lao động tất yếu sẽ dẫn đến việc tách quản lý thành một hoạt động đặc biệt. Từ đó, trong xã hội hình thành một bộ phận trực tiếp sản xuất, một bộ phận khác chuyên hoạt động quản lý, hình thành nghề quản lý.

Từ trước đến nay có rất nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên cứu về quản lý, với nhiều cách tiếp cận ở các góc độ kinh tế, xã hội, giáo dục... các nhà nghiên cứu, thực hành về quản lý đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về quản lý, cụ thể như sau:

* Theo các nhà khoa học nước ngoài:

Theo lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về quản lý: Quản lý xã hội một cách khoa học là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đối với toàn bộ hay những hệ thống khác nhau của hệ thống xã hội trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng đắn

những quy luật khách quan vốn có của nó nhằm đảm bảo cho nó hoạt động và phát triển tối ưu theo mục đích đặt ra.

H.Koontz (người Mỹ): Quản lý là một hoạt động thiết yếu nhằm đảm bảo sự phối hợp những nỗ lực của các cá nhân để đạt được mục đích của nhóm (tổ chức). Mục tiêu của quản lý là hình thành một môi trường trong đó con người có thể đạt được mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự bất mãn cá nhân ít nhất [17].

V.Taylor:“Quản lý là nghệ thuật biết rõ ràng chính xác cái gì cần làm và làm cái gì đó như thế nào bằng phương pháp tốt nhất và rẻ tiền nhất” (dẫn theo [18]).

K.Omarov (LiênXô): “Quản lý là tính toán sử dụng hợp lý các nguồn lực nhằm thực hiện các nhiệm vụ sản xuất và dịch vụ với hiệu quả kinh tế tối ưu” [dẫn theo 14].

Henry Fayol là người đầu tiên chỉ ra chức năng và những yếu tố của quản lý: “Quản lý hành chính là dự đoán và lập kế hoạch, tổ chức điều khiển, phối hợp và kiểm tra” [dẫn theo 18].

* Theo các nhà khoa học về QLGD ở Việt Nam:

Phạm Minh Hạc: “Quản lý là tác động có mục đích, có kế hoạch của chủ thể người quản lý đến tập thể người lao động nói chung (khách thể quản lý) nhằm thực hiện mục tiêu dự kiến” [16].

Đặng Vũ Hoạt và Hà Thế Ngữ cho rằng: “Quản lý là một quá trình định hướng, quá trình có mục tiêu, quản lý một hệ thống nhằm đạt được những mục tiêu nhất định” [26].

Trần Kiểm: “Quản lý là những tác động của chủ thể quản lý trong việc huy động, phát huy, kết hợp, sử dụng, điều chỉnh, điều phối các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) trong và ngoài tổ chức (chủ yếu là nội lực) một cách tối ưu nhằm đạt mục đích của tổ chức với hiệu quả cao nhất” [22].

Nguyễn Thị Mỹ Lộc: “Quản lý là sự tác động có định hướng, có chủ đích của chủ thể quản lý (người quản lý) đến khách thể quản lý (người bị quản lý) - trong tổ chức - nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [23].

Các quan niệm trên đây, tuy khác nhau, song các tác giả đã có cách hiểu chung về một số nội dung của quản lý là:

- Hoạt động quản lý, bao giờ cũng là quản lý con người được tiến hành trong một tổ chức hay một nhóm xã hội.

- Quản lý là những tác động có tính hướng đích.

- Quản lý là những tác động phối hợp nỗ lực của các cá nhân nhằm đạt mục tiêu của tổ chức. Đây là thể hiện mối quan hệ của chủ thể quản lý và đối tượng quản lý.

- Quản lý theo tinh thần của chủ nghĩa Mác- Lênin là hoạt động mang tính chủ quan nhưng phải phù hợp với những quy luật khách quan và hoạt động tự giác của con người.

Quản lý là một hoạt động mang tính tất yếu của xã hội. Chủ thể quản lý và khách thể quản lý luôn có tác động qua lại và chịu tác động của môi trường. Quản lý vừa là khoa học, vừa là một nghệ thuật. Vì vậy, người quản lý ngoài những yêu cầu về trình độ, năng lực, phẩm chất còn phải nhạy cảm, linh hoạt trong công tác lãnh đạo của mình.

Từ những quan niệm trên trong đề tài này chúng tôi hiểu: “Quản lý là sự tác động có ý thức, có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý để lãnh đạo, hướng dẫn, điều khiển đối tượng quản lý thực hiện nhằm đạt mục tiêu đã đề ra”.

1.2.2. Dạy học

Nhiều nhà khoa học đã tiếp cận khái niệm dạy học từ cơ sở của lí luận của quá trình giáo dục tổng thể. Mặt khác, xét quan hệ giữa các thành tố cấu trúc của hoạt động, một số tác giả đã luận giải về nội hàm của khái niệm dạy học từ những góc độ khoa học khác nhau như: giáo dục học, tâm lí học, điều khiển học,… dưới đây:

- Tiếp cận dạy học từ góc độ giáo dục học: “Dạy học-một trong các bộ phận của quá trình tổng thể giáo dục nhân cách toàn vẹn- là quá trình tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh nhằm truyền thụ và lĩnh hội tri thức khoa học, những kỹ năng kỹ xảo hoạt động nhận thức và thực tiễn, để trên cơ sở đó hình thành thế giới quan, phát triển năng lực sáng tạo và xây dựng phát triển các phẩm chất của nhân cách người học theo mục đích giáo dục” [22].

- Tiếp cận dạy học từ góc độ tâm lí học: “Dạy học được hiểu là sự biến đổi hợp lí hoạt động và hành vi của người học trên cơ sở cộng tác hoạt động và hành vi của người dạy và người học” [15].

- Tiếp cận dạy học từ góc độ điều khiển học: “Dạy học là quá trình cộng tác giữa thầy và trò nhằm điều khiển - truyền đạt và tự điều khiển - lĩnh hội tri thức nhân loại nhằm thực hiện mục đích giáo dục” [15].

Dựa trên các khái niệm về dạy học, tôi hiểu: Dạy học là quá trình tác động qua lại giữa người dạy và người học nhằm truyền thụ và lĩnh hội tri thức khoa học,

những kỹ năng, kỹ xảo hoạt động nhận thức và thực tiễn, trên cơ sở đó hình thành thế giới quan, phát triển năng lực sáng tạo và hình thành các phẩm chất của nhân cách người học.

Như vậy, dạy học là khái niệm chỉ quá trình hoạt động chung của người dạy và người học. Hai hoạt động dạy và học tồn tại song song và phát triển trong cùng một quá trình thống nhất, bổ sung cho nhau. Hoạt động dạy của GV là hoạt động tổ chức, điều khiển hoạt động nhận thức của HS, giúp HS tìm tòi, khám phá tri thức. Để thực hiện điều đó, GV đề ra mục đích học tập cho HS, xây dựng hoạt động của bản thân và dự tính kế hoạch hoạt động của HS, tổ chức thực hiện hoạt động dạy của mình và hoạt động học của trò; kích thích tính chủ động tích cực của HS và theo dõi, đánh giá kết quả học tập của trò. Hoạt động học của HS là hoạt động chủ động, tích cực, tự điều khiển hoạt động nhận thức trong việc thu thập, xử lí và biến đổi thông tin nhằm làm phong phú những giá trị của mình.

1.2.3. Khái niệm năng lực

Có rất nhiều cách hiểu, cách định nghĩa về năng lực và khái niệm này đang thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu của các nhà giáo dục trong nước cũng như trên thế giới. Có thể khái quát như sau: “Năng lực là một tập hợp hoặc tổng hợp những thuộc tính của cá nhân con người, đáp ứng những yêu cầu của hoạt động và đảm bảo cho hoạt động đạt được những kết quả cao”.

Trong một báo cáo của Trung tâm nghiên cứu Châu Âu về việc làm và lao động năm 2015 các tác giả đã phân tích rõ mối liên quan giữa các khái niệm: năng lực (Competence), kĩ năng (Skill) và kiến thức (Knowledge). Báo cáo này đã tổng hợp các định nghĩa chính về năng lực trong đó nêu rõ: Năng lực là tổ hợp các phẩm chất về thể chất và trí tuệ giúp ích cho việc hoàn thành một công việc với mức độ chính xác nào đó.

Theo Thái Duy Tuyên: “Năng lực là những đặc điểm tâm lý của nhân cách, là điều kiện chủ quan để thực hiện có kết quả một dạng hoạt động nhất định. Năng lực có liên quan với kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo. Năng lực thể hiện ở tốc độ, chiều sâu, tính bền vững và phạm vi ảnh hưởng của kết quả hoạt động, ở tính sáng tạo, tính độc đáo của phương pháp hoạt động” [35].

Theo Nguyễn Cảnh Toàn: “Năng lực là những thuộc tính tâm lý của cá nhân giúp cho việc con người lĩnh hội một lĩnh vực kiến thức hoạt động nào đó được dễ dàng và nếu họ tiến hành hoạt động trong lĩnh vực đó thì sẽ có kết quả cao” [34].

Trong từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên (NXB Đà Nẵng - 1988) có giải thích: “Năng lực là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó. Phẩm chất tâm lí và sinh lí tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao” [27].

Trong tài liệu tập huấn dạy học và kiểm tra, đánh giá theo ĐHNL học sinh do Bộ GD&ĐT phát hành năm 2014 thì: Năng lực là sự kết hợp một cách linh hoạt và có tổ chức kiến thức, kĩ năng với thái độ, tình cảm, giá trị, động cơ cá nhân nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định [5].

Năng lực là một vấn đề được bàn luận trên nhiều phương diện và góc độ khác nhau cả trong nước và ngoài nước. Chúng ta hiểu một cách ngắn gọn: Năng lực là khả năng vận dụng tất cả những yếu tố chủ quan mà bản thân sẵn có hoặc được hình thành qua học tập để giải quyết các vấn đề trong học tập, công tác và cuộc sống.

1.2.4. Dạy học Ngữ văn

Không giống các môn học khác, dạy học Ngữ văn là “dạy người”, bởi “Văn học là nhân học”. Ở bậc THCS, dạy Văn là tiếp tục dạy HS tiếng Việt và Văn, tuy nhiên môn học được gọi là Ngữ văn với ba phân môn rõ ràng: Văn bản, Tiếng Việt và Tập làm văn.

Mục tiêu, yêu cầu và nội dung dạy học môn Ngữ văn là hướng tới rèn HS giao tiếp thành thạo tiếng Việt ở cả 4 kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Trước đây dạy văn là dạy cho HS thấy cái hay, cái đẹp mà thầy cô hiểu và cảm được từ tác phẩm. Hệ quả là thầy cô toàn đọc hộ, cảm thụ và hiểu hộ HS còn HS chỉ biết ghi chép và học thuộc những điều thầy cô cho ghi; khi kiểm tra chỉ cần nhắc lại những điều học thuộc ấy, còn theo yêu cầu PTNL hiện nay, dạy văn cần dạy cho HS cách đọc văn, thực chất là biết cách giải mã văn bản văn học. Kết quả là HS tự mình hiểu được nội dung và ý nghĩa của tác phẩm ấy; HS biết cách đọc, cách khám phá, phân tích để hiểu và thưởng thức văn học; các em tự làm giàu có thêm cho tâm hồn, tình cảm và có ý thức, nhân cách cao đẹp hơn. Từ đó, các em sáng tạo ra những sản phẩm của mình bằng cảm nhận riêng của mỗi HS.

1.2.5. Dạy học Ngữ văn định hướng năng lực học sinh

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo [3] nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực; chủ động sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc.

Tập trung cách dạy, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lưc”.

Đổi mới dạy học Ngữ văn theo ĐHNL học sinh là đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học, đánh giá trong giáo dục THCS.

Chương trình dạy học truyền thống có thể gọi là chương trình giáo dục “định hướng nội dung” dạy học hay“định hướng đầu vào”. Đặc điểm cơ bản của chương trình này là chú trọng truyền thụ hệ thống tri thức khoa học theo chương trình cụ thể. Tuy nhiên chương trình này không chú trọng khả năng khả năng ứng dụng tri thức của người học vào tình huống thực tiễn.

Dạy học theo ĐHNL hay còn gọi định hướng kết quả đầu ra thực hiện mục tiêu phát triển toàn diện các phẩm chất, nhân cách, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong những tình huống thực tiễn nhằm chuẩn bị cho con người năng lực giải quyết tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp. Chương trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức.

Dạy học Ngữ văn theo ĐHNL không quy định những nội dung dạy học chi tiết mà quy định những kết quả đầu ra mong muốn của quá trình giáo dục. Trên cơ sở đó, đưa ra những hướng dẫn chung về việc lựa chọn nội dung, phương pháp, tổ chức và đánh giá kết quả dạy học nhằm đảm bảo thực hiện được mục tiêu dạy học, tức là đạt được kết quả đầu ra mong muốn.

1.2.6. Quản lý dạy học Ngữ văn định hướng năng lực học sinh

Quản lý dạy học là sự tác động có chủ đích, hợp quy luật của chủ thể quản lý dạy học (hiệu trưởng) đến khách thể quản lý dạy học (người dạy và người học) bằng các giải pháp phát huy tác dụng của các phương tiện QLDH như chế định giáo dục và đào tạo, bộ máy tổ chức và nhân lực dạy học, nguồn tài lực và vật lực dạy học, môi trường dạy học và thông tin dạy học nhằm đạt được mục đích QLDH.

Dạy học là hoạt động trọng tâm của nhà trường nên QL hoạt động dạy học cũng là hoạt động trọng tâm trong hoạt động QL nhà trường.

Quản lý dạy học theo định hướng PTNL học sinh là sự tác động của chủ thể QL tới quá trình dạy học nhằm đảm bảo dạy học không chỉ dừng ở mục tiêu hình thành kiến thức, kỹ năng, thái độ tích cực ở người học mà còn nhằm đạt mục tiêu cao hơn là PTNL cho người học để giải quyết các tình huống thực tiễn của cuộc sống và nghề nghiệp.

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 19/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí