Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Thơ Trần Nhuận Minh – Một Thứ Ngôn Ngữ Dung Dị, Đời Thường


Mỗi lần bước lên thềm nhà

Hai tay người phải chống vào đầu gối

Phải có những “cuộc cháy” của nhận thức, của lòng mình, con người mới cảm nhận ra mình đã sống vì ai, và sẽ sống cho ai trong cuộc đời dâu bể. Và, lúc đó con người bật lên một cảm xúc vỡ òa trước thâm tình của mẹ:

Con sung sướng vì trên đời này có mẹ Mẹ cũng chẳng bao giờ tủi hổ vì con

Hình tượng người mẹ trong thơ Trần Nhuận Minh được viết bằng tất cả những cảm xúc chân thành, thôi thúc, bằng tình cảm máu thịt sâu sắc bật lên từ trong sâu thẳm của trái tim nhà thơ. Hình tượng mẹ có ý nghĩa như một biểu tượng thiêng liêng, cao quý và bất diệt trong cuộc đời mỗi con người: bởi công dưỡng sinh, dưỡng dục, bởi tình yêu cách mạng, tình yêu tổ quốc mà mẹ sẵn sàng góp một phần công sức của mình làm nên hậu phương vững chắc cho tiền tuyến. Chính vì thế, hình tượng mẹ là kết tinh vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống.

2.4. Hình tượng Em – nỗi ám ảnh trong tình yêu

Mỗi người nghệ sĩ đều có hình tượng người tình lí tưởng trong tâm hồn mình. Đó là mẫu hình lí tưởng theo quan niệm và khát vọng thẩm mĩ riêng của người nghệ sĩ ấy, là hiện thân của cái đẹp mà họ tìm kiếm và tôn thờ trong suốt cuộc đời mình. Với Trần Nhuận Minh, đó là nhân vật “Em” - bình dị và mộc mạc nhưng cũng thật nên thơ và huyền ảo.

Ông từng nói rằng: phần lớn các nhà thơ khi viết thơ tình, nhân vật “em”, “nàng”, trong bài thơ tình đó, chưa chắc đã là nhân vật có thật, hiện hữu và ám ảnh, theo suốt cuộc đời dài dằng dặc của họ. Chưa chắc người tình trong những bài thơ tình đó có thật, hay là một người duy nhất, mà đó chỉ có thể là những hình ảnh, những ảo ảnh, hoặc rất nhiều người tình được tồn tại trong nhân vật “em” ấy. Với nhà thơ Trần Nhuận Minh, không thế. Ông tự phong cho mình là người viết những bài thơ tình đích thực. Tại sao gọi là đích thực? Bởi nhân


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 140 trang tài liệu này.

vật trong những bài thơ tình, có những bài nổi tiếng của ông như: Thơ tình ngày không em, Vào phút ấy thì em nên đến nhé…,thì hình ảnh người con gái, nhân vật người tình trong các bài thơ tình của ông, là hoàn toàn có thực. Không những có thực, mà trong cả cuộc đời thơ của ông, người con gái đó, lúc xuất hiện mơ hồ, bảng lảng như chút “nợ nần khói sương”, lúc thì hiện lên rõ rệt, đau đớn và cồn cào trong tâm hồn nhiều dằn vặt của thi sĩ, lúc sừng sững như một ngọn núi đá, mà nhà thơ Trần Nhuận Minh: “muốn làm cũng chẳng được làm người dưng”, “có đi trăm nẻo, đến trăm nơi, gặp gỡ trăm người con gái khác, cũng không thể xóa nhòa đi, hình ảnh đã đóng đinh vào cuộc đời ông”[69.331].

Trần Nhuận Minh sáng tác thơ tình không nhiều, thống kê trong tập Nhà thơ và hoa cỏ có 12 bài, tập Bản Xô nát hoang dã có 5 khúc, tập 45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh có 5 khúc. Mỗi bài thơ là sự hoài niệm về tình yêu đã qua, thứ tình yêu mà Orabengon từng nhắc nhở “Tránh đừng động vào cây mùa lá rụng – Nhắc suốt đời cũng dường bấy nhiêu thôi”. Theo thói thông thường, cái gì đã qua, không có được thì con người luôn tiếc nuối, đam mê trong tâm tưởng và nghĩ về nó đầy lí tưởng, mĩ hóa.

Thơ Trần Nhuận Minh - 11

Trong thơ tình của Trần Nhuận Minh, hình tượng “Em” xuất hiện trong tâm tưởng của nhà thơ vừa hư, vừa thực, vừa cụ thể, vừa ảo mộng của một thời dấu xưa:

Đêm ấy rừng thu thơm lạ lùng, thơm lạ lùng Tà áo em đầy gió

Vòm ngực em đầy gió Đôi môi em đầy trăng Đôi mắt em đầy trăng

(Đêm cuối rừng thu)

Không gian đêm rừng thu có gió, trăng đan kết lại thành một không gian tơ duyên. Cảnh vật thiên nhiên huyền ảo, diễm lệ, tràn trề ánh trăng dát bạc, làn gió


đưa hương thoang thoảng giăng mắc cả một vùng. Sự tồn tại của cảnh vật đều được tâm trạng hóa để diễn tả tình cảm nhớ thương nồng nàn. Hình ảnh “em” nổi bật giữa thế giới nên họa, nên thơ.

Bức chân dung của nhân vật “em” luôn là tâm điểm trong ý thức của anh, là nơi hội tụ của ánh mắt anh ngắm nhìn, rất nhẹ nhàng mà cũng rất mơ hồ, mong manh:

Em đi như dáng chiều

Đu đưa như trên ngọn cây phù du

(Bản Xô nát hoang dã)

Em được tạo nên từ những gì tinh túy nhất của trời đất: “đầu em là đõ ong rừng”, “mật ứa đôi môi”, “vòm ngực em là hũ rượu thơm”, “bụng em là quả đồi xanh tươi”…Tác giả sử dụng những hình ảnh so sánh độc đáo, tạo nên những liên tưởng thú vị cho người đọc, bức chân dung của em hay là bức chân dung của nữ thần đầy uy lực, mà không kém sự ngọt ngào, quyến rũ.

Thậm chí trong cái nhìn si tình, tác giả còn thấy em hóa thân trong giai điệu tiếng đàn bầu dân tộc

Ta tìm em

Trong tiếng đàn bầu

(45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh)

Ở em toát lên vẻ đẹp lí tưởng hóa cả về thể xác và tinh thần, khiến anh ngập ngừng, rụt rè, không giám bày tỏ tình yêu của mình:

Anh muốn nắm tay em mà không dám nắm tay em Anh cũng muốn nói điều đó nhưng anh im lặng

Trong thế giới nhỏ bé của anh, em có sức mạnh phi thường: “Chỉ một giọt nước mắt/Cũng làm dấy lên trong tôi/ Bao nỗi xót xa ân hận”, thậm chí chi phối mọi quy luật tồn tại của thế giới ấy, “Ta đứng chờ em bạc cả sắc thu xanh”. Mối tình của anh và em là mối tình đậm sắc hương cổ tích, tồn tại trong day dứt cõi lòng:


Em tìm ai áo tía đến nao lòng

Môi ta chạm mầu nắng mòn nhạt thếch Mối tình hoang xanh rờn hương cổ tích Mơ hồ giăng trong sắc đắng hoa mua

(Đà Lạt)

Thời gian nghệ thuật là “biểu tượng, một tượng trưng thể hiện một quan niệm của nhà văn về cuộc đời con người” [57.84].. Trong tình yêu, nhịp đập trái tim chính là nhịp đo thời gian, thời gian không tồn tại khách quan, mà là thời gian tâm lí tồn tại trong hồi tưởng, thương nhớ, mong mỏi, nuối tiếc, khao khát. Nhân vật trữ tình trong thơ Trần Nhuận Minh hầu như chỉ sống trong một buổi chiều, thời khắc ấy rất phù hợp với việc diễn tả tâm trạng buồn, suy tư, nhớ thương, hoài niệm:

- Có một chiều xanh thẳm ở trong nhau

- Có một chiều xa vắng ở bên nhau

- Có một chiều yên ấm ở xa nhau

(Chiều xanh)

Dấu ấn tình yêu không chỉ hiện hữu theo dòng thời gian mà còn hiện hữu trên nền không gian. Một góc vườn xưa từng có hình bóng em, ăm ắp kỉ niệm hiện về:

Và góc vườn khuya

Nơi đầu tiên tôi đứng hôn em Vang vang nở

Một nụ tầm xuân

Biêng biếc tím

Nhỏ và run như

Cúc áo

Em

Rơi…


(Bản Xô nát hoang dã)

Hình ảnh nụ tầm xuân xuất hiện gợi cho người đọc nhớ tới nụ tầm xuân trong ca dao “Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân/Nụ Tầm xuân nở ra xanh biếc/Em có chồng anh tiếc lắm thay”. Không gian của thực tại, nhưng thời gian và hình ảnh là sự hòa nhập, đan xen giữa quá khứ và hiện tại, tất cả chỉ là niềm tiếc nuối.

Khi muốn quên, người ta thường né tránh nhắc đến. Tình yêu đã qua thì chôn chặt trong lòng, nhưng đôi lúc gặp lại cảnh cũ, nó ùa về xâm lấn tâm hồn. Tình yêu của nhân vật trữ tình gắn chặt với “gian gác nhỏ, bậc thềm già”, “con đường dốc” thân quen, bình dị:

Gian gác nhỏ mưa lan mờ bến bãi Gió non thổi bậc thềm già nắng trái Con đường dốc em đi không trở lại

(Chiều xanh)

Đó đều là những gian nhỏ hẹp đủ để chứa những cảm xúc riêng tư đôi lứa. Đọc thơ tình Trần Nhuận Minh có cảm giác như gặp chính mình ở đó.

Tình yêu trong tâm tưởng rất khác với tình yêu hiện tại, thế giới của chàng trai là thế giới của những gam màu thương nhớ. Hình ảnh “em” luôn tươi trẻ, hồn nhiên như như hương sắc bốn mùa, lúc nào cũng mới lạ, cũng hấp dẫn trong mắt anh:

Có một chiều xanh thẳm ở trong nhau Gian gác nhỏ mưa lan mờ bến bãi

Áo em ngắn hết một thời con gái Nỗi yêu anh còn biết dấu vào đâu

(Chiều xanh)

Em hắt lên anh màu thu biếc người Em như vầng trăng sang bên kia trời

(Màu xưa)


Hình tượng “em” hiện lên trong thơ Trần Nhuận Minh đầy thơ mộng và lãng mạn. Đấy là cách để ông trút xả tâm sự, tình cảm của mình về mối tình đầu, về thời đã qua với những kỉ niệm trong sáng, đẹp đẽ. Và khi đó là những rung động bất chợt về một nửa thế giới trong cuộc sống. Hình tượng “em” này xuất phát trong cảm hứng trữ tình cá nhân, đời tư của tác giả. Nó cho thấy phong phú hồn thơ Trần Nhuận Minh, và đồng thời như là sự “tự cân bằng” của chính ông bên những vần thơ thế sự nóng bỏng mang đậm tinh thần, trách nhiệm xã hội và nhiệt tình công dân


Chương 3

NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU THƠ TRẦN NHUẬN MINH


3.1. Ngôn ngữ

Văn học nói chung và thơ ca nói riêng là loại hình nghệ thuật sử dụng chất liệu ngôn từ, lấy ngôn từ làm phương tiện, chất liệu tái hiện đời sống, biểu lộ tư tưởng tình cảm, xây dựng thế giới nghệ thuật. Về bản chất ngôn từ mang tính kí hiệu, có khả năng gợi lên những hình tượng nghệ thuật, đưa ta thâm nhập vào thế giới của chủ thể trữ tình với những cảm xúc, ấn tượng, suy tưởng…Muốn vậy ngôn từ phải được tổ chức, kết cấu theo dụng ý nghệ thuật của tác giả để tạo ra các giá trị biểu cảm mong muốn. Theo Phương Lựu, ngôn từ văn học “là ngôn từ của tác phẩm văn học, của thế giới nghệ thuật, kết quả sáng tạo của nhà văn. Đó là ngôn từ giàu tính hình tượng và giàu sức biểu hiện nhất, được tổ chức một cách đặc biệt để phản ánh đời sống, thể hiện tư tưởng, tình cảm và tác động thẩm mĩ tới người đọc”[143.185].

Như vậy ngôn ngữ trong văn chương là một hiện tượng nghệ thuật có chức năng sáng tạo ra khách thể thẩm mĩ, sáng tạo ra bản thân các hình tượng ngôn từ, hình thức lời thơ, lời văn nghệ thuật…đặc biệt nó thể hiện rõ nhất hình tượng nghệ thuật.

3.1.1. Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Trần Nhuận Minh – một thứ ngôn ngữ dung dị, đời thường

3.1.1.1. Ngôn ngữ mang tính dân gian


Trong thơ Trần Nhuận Minh, đặc biệt là thơ lục bát, ta thấy ngôn từ thơ ông được lấy từ chất liệu ngôn ngữ đời sống. Đó là lời ăn tiếng nói giản dị, mộc mạc, dân dã của nhân dân trong hiện thực cuộc sống đời thường. Do đó, thơ của ông đượm tính dân tộc, với thứ ngôn ngữ dân gian và với thứ ngôn ngữ ca dao truyền thống. Có thể khẳng định điều đó ngay qua cách đặt tên cho bài thơ của ông.

Ca dao vốn không định danh từng bài. Người đời sau thường dựa vào câu thơ đầu để đặt tên như: Tát nước đầu đình, Trèo lên cây bưởi hái hoa, Người thợ mộc Thanh Hoa…,Trần Nhuận Minh cũng vậy. Hơn bốn mươi bài thơ lục bát trong Miền dân gian mây trắng đều được đặt tên như thế cả. Nào là Con chim nó đậu…, Ngày này tháng nọ…, Ta qua bến lú…, nào là Sáng qua anh đến…, Gió đưa khói bếp…, Hỏi chàng quân tử…, Châu chấu sang hỏi…nghe vừa hóm hỉnh, vừa dân dã mà ẩn ý sâu xa. Đặt tên bài thơ kiểu này dễ gây hứng thú cho người đọc.

Thơ Trần Nhuận Minh là thơ thế sự đời tư, phản ánh chân thực “muôn mặt của đời thường”, trong mối quan hệ đa chiều, có mảng sáng, góc tối của cuộc sống, có niềm vui và nỗi khổ, có hy vọng và bi kịch của con người. Để truyển tải thấu đáo đầy hàm ý về vấn đề nhân sinh thế sự, Trần Nhuận Minh đã vận dụng thành ngữ dân gian vào trong thơ mình một cách sáng tạo, độc đáo.

Thành ngữ dân gian có khi được sử dụng ở tình huống trêu trọc trong cuộc đối thoại giữa cô gái với chàng trai đã tạo tính hài hước, hóm hỉnh pha chút hờn dỗi, trách móc của nhân vật trữ tình:

Ối giời ơi! Đến nỗi này

Ăn gì mà bụng mỗi ngày một to…

- Ứ hừ…Ai khiến anh lo

Lo trâu đen cổ, lo bò trắng răng

(Ngày nào em đẹp…)

Xem tất cả 140 trang.

Ngày đăng: 20/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí