nhưng Trần Nhuận Minh viết với thái độ và cách nhìn mới có sự hòa trộn giữa hai điểm nhìn lí tưởng hóa và hiện thực. Trần Nhuận Minh trong tư cách là người nhập cuộc, người tham gia vào lịch sử cất lên khúc sử thi hào hùng của một thế hệ dám sống, dám chiến đấu và hi sinh cho lí tưởng, cho mùa xuân bất diệt của đất nước.
2.2.2. Người lính trong thời bình đối mặt với những thách thức đầy bất ổn
Sau năm 1975, Đất nước sạch bóng quân thù. Những người lính anh hùng bước ra từ cuộc chiến để trở về với cuộc sống đời thường. Trước mắt là cả một quãng đường dài không ít những khó khăn, trở ngại mà họ cần phải vượt qua để tồn tại. Nhưng cuộc sống thời bình không hoàn toàn làm cho người lính ung dung, thanh thản. Xây dựng hình tượng người lính trong đời thường, Trần Nhuận Minh đã đạt tới chiều sâu trong việc khám phá tâm lí nhân vật. Nhà thơ đi vào từng cảnh ngộ cụ thể của người lính để nắm bắt lấy những biểu hiện, phản ứng tâm lí của họ trước một hoàn cảnh xã hội đầy sự biến động và phát triển.
Hình ảnh một Đại tá quân đội về hưu với đồng lương ít ỏi phải làm nghề bơm xe đạp; một người bạn từng có mặt trong khắp các trận đánh cho đến ngày đất nước thống nhất vẹn tròn, khi giải ngũ về quê, vẫn khoác trên mình bộ quân phục giản dị, bắt đầu bước vào cuộc sống của một lão nông tri điền:
Đứa thì đánh giặc liên miên Về quê vẫn chú lính quèn vậy thôi
(Bạn chơi từ thời quàng khăn đỏ)
Còn rất nhiều người lính bước ra từ cuộc sống binh nghiệp đầy gian khó. Họ phải đối mặt với một cuộc sống mới mà mọi giá trị đang biến đổi từng ngày. Họ khó hòa nhập với cuộc sống thị trường đầy bon chen, với những quan hệ xô bồ, và vì thế, cứ ngơ ngác giữa dòng đời và người thân. Một người lính già lúc trẻ lập nhiều chiến công hiển hách, huân chương treo đầy trên tường, bây giờ bỗng thấy mình lạc lõng giữa cuộc sống đang đổi thay một cách nhanh chóng,
nên chỉ còn biết sống với hoài niệm của một thời chiến tranh ác liệt nhưng hào hùng:
Có thể bạn quan tâm!
- Thơ Trần Nhuận Minh - 7
- Hình Tượng Người Trí Thức Trước Vòng Xoáy Của Cơ Chế Thị Trường
- Hình Tượng Người Lính Trong Thời Chiến Và Thời Bình
- Ngôn Ngữ Nghệ Thuật Trong Thơ Trần Nhuận Minh – Một Thứ Ngôn Ngữ Dung Dị, Đời Thường
- Ngôn Ngữ Mang Tính Triết Lí Sâu Sắc
- Sử Dụng Các Kết Từ Lạ, Độc Đáo
Xem toàn bộ 140 trang tài liệu này.
Chẳng ai cười người già lão Ơn Giời, Giời để tuổi cho
Chiến công còn ghi sử sách Huân chương để trên bàn thờ Mai ngày về cùng các cụ
Nhớ thuê hai đội kèn đồng Thổi toàn bài ca chiến trận Đã từng vang dội núi sông.
(Quê ta)
Con người là nguyên khối nhưng cũng là con người của phân thân và đối lập, người lính luôn mang trong mình một nỗi lo lớn cho sự tồn tại của cuộc đời, vốn bao giờ cũng là sự song hành giữa hai bờ buồn – vui, được – mất, bi quan – lạc quan, thất vọng và hy vọng. Số phận người lính luôn được Trần Nhuận Minh đặt trong một sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, giữa thời chiến và đời thường. Trong cuộc chiến tranh vệ quốc, hình tượng người lính hiện lên dũng cảm, mưu chí và phi thường:
Thân qua trăm tầm đạn Không hề có vết thương
Chiến tranh lùi xa vào kí ức, người chiến binh trở về đã và đang phải đối diện với cuộc sống ngổn ngang thách thức của thời bình. Cuộc sống hiện đại với trăm ngàn biến ảo thì có trăm ngàn lí do đẩy người lính vào trạng thái cô đơn khiến họ như rơi vào thảm cảnh hoang vắng, trống trải trong tâm hồn và luôn cảm thấy bơ vơ, lạc lõng giữa cuộc đời. Họ phải đối mặt với những bi kịch, những cảnh ngộ buồn đau: “vợ bỏ”, “con vượt biên”, “nhà bán”, “thơ đếch ai in”. Lúc phải đối mặt với chiến tranh ác liệt, người lính đã dũng cảm vượt qua để có thể tự hào, ngẩng cao đầu trong tư thế của người chiến thắng, nhưng trong
cuộc sống đời thường, đầy sự biến động, vận động không ngừng, khiến họ ngơ ngác, không theo kịp, không thích ứng kịp, nên nhiều khi lại muốn được quay lại nơi chiến trường máu lửa để được hi sinh anh dũng qua những trận đánh:
Tớ muốn làm liệt sĩ
Đất nước không chiến trường Hi sinh đâu phải dễ
(Bạn cũ)
Chiến tranh đã đem lại bao đau thương, mất mát cho con người, và chiến tranh cũng làm cho người lính tỏa sáng hào quang bởi những chiến công vang dội. Thời thế tạo nên những người lính anh hùng, nhưng chính thời thế cũng làm nẩy sinh thói công thần trong người lính. Rất nhiều người lính sống sót trở về sau chiến tranh để trở thành người chồng thủy chung, người cha mẫu mực và người công dân tốt, nhưng trong bài thơ Thím Hai Vui, có những người lính từng bạo lực với kẻ thù trong chiến tranh chuyển sang bạo lực trong gia đình thời bình. Bản tính đó như một hội chứng hậu chiến trút lên đầu thím Hai Vui:
Thế rồi…biết vì đâu
Yên lành không chịu được Vợ con chú đánh trước
Xóm giềng chú đánh sau Chớ dại mà can chú
Chú nhất cả huyện rồi
Người lính đó từng góp công để kết thúc cuộc chiến tranh vệ quốc, nhưng lại đem đến cuộc chiến tranh cho gia đình: “Chú đòi phải li dị/Mỗi con về một nơi”. Người lính đã tự đánh mất đi hạnh phúc của mình, gây nên tình cảm li tán, và đã tạo nên một vết thương lòng vĩnh viễn không thể hàn gắn trong sự đổ nát tình cảm vợ chồng, dẫn đến bi kịch gia đình người lính là những mảnh vỡ không hoàn nguyên.
Hình tượng người lính trong thơ Trần Nhuận Minh được phác họa trong sự đối lập. Trong chiến tranh, người lính lấp lánh phẩm chất anh hùng, với bản lĩnh dũng cảm, yêu nước, thương dân. Sự hi sinh của họ không thể nào đo đếm được, không thể gọi tên. Nhưng trong đời thường, nhà thơ lại phát hiện ra một thực tế xót xa trước số phận của người lính, đầy bất trắc, và thương cảm. Vì thế số phận người lính, như một minh chứng cho những nghịch lí đau buồn trước cuộc sống đầy biến động và phát triển. Sự mãnh liệt của cảm xúc ngợi ca song hành với một lí trí tỉnh táo trong cảm hứng thế sự, giúp Trần Nhuận Minh tái hiện sinh động và chân thực về hiện thực ở góc nhìn số phận người lính cả trong thời chiến và trong thời bình.
2.3. Hình tượng Mẹ - vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống
Trong thơ ca, số bài thơ viết về tình mẫu tử chiếm một lượng không nhỏ. Số lượng thi phẩm này có sức thuyết phục lòng người, kể cả những độc giả khó tính nhất. Bởi nó vượt qua những tiêu chí về nghệ thuật mà để lại cái tình trong thơ, khiến người đọc xúc động và không thể quên.
Trần Nuận Minh viết về mẹ bằng tất cả tình yêu thương, sự thành kính và lòng biết ơn vô hạn. Người mẹ trong thơ ông là người phụ nữ nông thôn hiền từ, chất phác, sống ở nơi đồng quê bên kia con sông Kinh Thầy giáp với vùng đất mỏ. Cũng như biết bao hình tượng người phụ nữ khác, hình tượng người mẹ ở đây mang một vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống: đảm đang, tháo vát, nhân hậu, bao dung, giàu đức vị tha, hết lòng yêu chồng thương con. Trong kháng chiến, mẹ từng nuôi dấu cán bộ cách mạng và tiếp tế cho bộ đội, khi hòa bình lập lại, mẹ là trụ cột của gia đình, phải gồng mình trong lao động: “mẹ tôi vào phường cấy thuê” và ngược xôi “trên chuyến đò đầy” để nuôi dưỡng những tài thơ lớn lên từ mái nhà tranh vách nứa.
Hình tượng người mẹ trong thơ Trần Nhuận Minh được khắc họa bởi một cảm xúc chân thành, sâu sắc. Mẹ đã phải trải qua bao nỗi nhọc nhằn, cay đắng.
“Chiếc đòn gánh cong” ngày nào đè nặng trên đôi vai của bà, giờ đây lại vít trĩu lên đôi vai của mẹ:
Mẹ tôi lại gánh chiếc đòn cong Lại đi gánh mướn lại long đong Cuộc đời vít trĩu đôi đầu gánh Lưng mẹ già nua còng lại còng
(Chiếc đòn gánh cong)
Bởi lẽ đối với Trần Nhuận Minh, chỉ có một người mẹ vất vả, cơ hàn mới được khắc sâu trong tâm khảm của thi nhân bởi một nét “long đong” và một hình ảnh “già nua còng lại còng”. Cái dáng còng của mẹ ở chốn làng quê nghèo lại hiện lên trong tâm thức của người con:
Dáng mẹ hao gầy
Còng lưng sách nước
Cái cầu ao Gióng tre ngà thân thuộc
(100 bước cuối cùng)
Hình bóng mẹ có ý nghĩa biểu tượng cho những con người lao động lam lũ, cần cù, chịu biết bao lao khổ dưới gánh nặng cuộc đời:
Bóng tối nặng trùm lên vai mẹ Mẹ còn gánh cát chạy đường đê.
(Chiếc đong gánh cong)
Trong sự sống bộn bề, náo nhiệt của đời thường, người con đã gợi lại kí ức ở những giây phút tĩnh lặng, thảng thốt, xót xa trước hình ảnh mẹ:
Mười mấy năm rồi tôi vẫn nhớ Có lần mẹ gánh gãy xương lưng Mẹ dúi cho tôi vài củ lạc
Nhìn tôi mà nước mắt rưng rưng
(Chiếc đòn gánh cong)
Người đọc cảm nhận ra giọt “nước mắt rưng rưng”, mặn mòi của mẹ rơi xuống để tưới mát sự khôn lớn cho đời con.
Hành trình của mẹ đi từ đói nghèo, cơ cực rồi cũng có ngày đến được chân trời của cuộc sống mới. Ta nhận ra nét cười rạng rỡ mà dịu hiền bên giọt nước mắt tràn ngập niềm vui, làm sáng cả không gian, làm đẹp cảnh vật thuở ấu thơ thời xa vắng:
Mẹ cười, lệ bỗng lăn trên má Hợp tác đời vui mái ngói hồng
(Chiếc đòn gánh cong)
Bằng suy luận, Trần Nhuận Minh đã nhận ra một sự đối lập. Đó là sự đối lập giữa cuộc sống bên ngoài với lời kể của mẹ trong những câu chuyện cổ tích, giữa hiện thực đắng chát và cảm xúc ân tình mẹ dành cho con:
Con dần hiểu vì sao mẹ cực khổ thế Mà chuyện kể, lời ru chỉ có ngọt ngào
(Mẹ)
Lời ru của mẹ đã sinh ra từ trái tim ăm ắp tình yêu thương và vòng tay êm ấm. Lời mẹ chở đầy hương vị cuộc đời. Cuộc đời được chắt ra từ những giọt buồn, niềm vui, sự ngọt ngào và cả cay đắng.
Lời ru năm nào của mẹ ru con, giờ đây lại dành để ru cho cháu mà sao cứ thấy xót xa, nghẹn ngào:
Nghe mẹ lại đang ngọt ngào ru cháu Chỉ có vậy thôi
Mà sao con thấy nghẹn Cứ tự nhiên ứa nước mắt ra
(Mẹ)
Lời ru đấy không chỉ ngọt ngào, êm ái trong chiếc nôi đưa, mà còn có sức tỏa nhiệt trên đầu lưỡi kiếm của những anh hùng ra trận:
Lưỡi kiếm ra trận của người anh hùng
Đã tôi trong lời ru của mẹ
(Đá cháy)
Cũng trong sự đối lập, Trần Nhuận Minh nhận ra một thực tế: cuộc đời mẹ phải đối mặt với hiện thực đắng cay, nhưng mẹ lại gieo vào tâm hồn con trẻ một tuổi thơ trong sáng, giầu mơ ước giúp con đi trọn cuộc hành trình vững bước niềm tin:
Con dần hiểu
Nếu mẹ chỉ dạy con những sự thực cay đắng Thì chắc con cũng không thành con hôm nay
(Mẹ)
Và Trần Nhuận Minh rất có lí khi chiêm nghiệm rằng:
Ông trời sinh ra Người Mẹ Để thay mặt cho mình
Đi hết đời vẫn không hết nỗi lo toan của Mẹ
Và ngẩng lên lúc nào cũng thấy bóng mây xanh
(Đá cháy)
“Nỗi lo toan của Mẹ” rất vô hình nhưng cũng thật vô giá, nó được đặt trong trong thế đối xứng với cái hữu hình: “đám mây xanh” để nâng hình tượng người mẹ thêm kì vĩ.
Nhưng hạnh phúc lớn lao nhất của người mẹ vĩ đại là đã sinh ra những đứa con cứng chắc như “Tảng Đá”, ý chí hừng hực như “Ngọn Lửa”, đặc biệt hơn là xứng đáng với danh hiệu “Người”:
Mẹ đã sinh ra con như một Tảng Đá
…Mẹ đã sinh ra con như một Ngọn Lửa
…Nhưng trước hết mẹ đã sinh ra con là Người.
(Đá cháy)
Tình cảm của người mẹ được ví von với cái vô cùng của thiên nhiên, lấy thiên nhiên làm chuẩn mực để so sánh như trong câu hát: “Lòng mẹ bao la như
biển Thái Bình hiền hòa/Lòng mẹ tha thiết như vầng trăng tròn mùa thu” hay trong câu ca dao: “Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, nhưng ở trong thơ Trần Nhuận Minh có sự ngược lại, tấm lòng người mẹ trở thành nét đẹp chuẩn mực để so sánh cho bất cứ một đối tượng, sự vật nào trên đời:
Những cổng làng như lòng mẹ thương con
(Cổng làng)
Và chính tấm lòng đó đã trở thành con đường vô hình nối cuộc sống của con gói trọn trong vòng tỏa ấm của tình mẹ:
Nơi ở chúng tôi có những con đường vô hình Dẫn đến tấm lòng người mẹ
(Nơi ở của chúng tôi)
Viết về hình tượng người mẹ, Trần Nhuận Minh dồn hết cảm xúc yêu thương vào bút lực để hướng về vùng đất bên kia con sông Kinh Thầy, nơi có người mẹ già nua vẫn sống gắn bó với hương vị đồng quê, với bề dầy của trầm tích văn hóa. Trong trường ca Đá cháy, hình tượng mẹ xuất hiện suốt chiều dài bài thơ.
Có một khoảng không gian sắc màu được pha trộn bởi bước luân chuyển thời gian, đã nhuộm dáng hình mẹ đang chen chúc trên chuyến đò đầy nguy hiểm lúc trời chiều trở gió:
Sông Kinh Thầy mùa xuân nước xanh Sông Kinh Thầy mùa thu nước đỏ
Cánh buồm trắng mong manh chiều trở gió Mẹ tôi đi chuyến đò đầy
Trần Nhuận Minh có lúc phải thảng thốt, giật mình khi nhận ra “màu mây” trên mái tóc “Người” ở cái lúc “chợ chiều bóng xế”, mà cảm thấy trong lòng rưng rưng:
Mẹ tôi tóc đã bạc trắng
Bạc hơn bất cứ mầu mây nào