Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 11


thơ mà người ta cứ tưởng là môt

đoan

thơ . Có những câu thơ dài đến gần 60

chữ, nghĩa là hơn một bài thất ngôn bát cú . “Lý do vắng bóng của cái tôi chỉ có thể giải thích bằng cả nguyên nhân tư tưởng lẫn nguyê n nhân phương

pháp sáng tác. Bấy giờ cá i tôi đươc

quan niêm

như là môt

cá i tôi riêng tư , cá

nhân, đăc

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.

biêt

là cá i tôi lãng man

Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 11

thì chưa thích nghi vớ i cuôc

khá ng chiến

đầy gian khổ hy sinh. Vì vậy cái tôi cũ thì bị nhà thơ giam lỏng, “quản thú c”, chờ ngà y hòa bình đem ra xé t xử . Còn cái tôi mới thì còn đang ngại ngùng , e

ấp, chưa có đủ can đảm để xuất đầu lộ diên

. Hình tượng thơ ở thời kỳ này

thiếu môt

́ c bay bổng , vươn cao . Hơn nữa đây là thời kỳ làm quen với

phương phá p sá ng tá c mớ i nên không trá nh khỏi những bỡ ngỡ và những thất bại có tính chất thử nghiệm” [ 43,154]

Đến tâp

thơ “ Ánh sáng và phù sa”, đâu đâu ta cũng thấy vang lên khúc

ca chiến thắng c ủa cái mới đối với cái cũ . Trong tập thơ này , ta nhân

ra cái

Tôi lần thứ hai xuất hiên

trong thơ ông như môt

đề tài , như môt

nôi

dung biểu

hiêṇ . Điều này còn thể hiên

rõ hơn trong giai đoan

Di cảo của Chế Lan Viên .

Cái tôi trong “Điêu tà n” Chế Lan Viên đưa ra môt

c ái tôi chiến sĩ còn rất trẻ

trung nhưng đã đươc

tôi luyên

trong kháng chiến , trong những ngày đi thưc

tế, làm công tác “ tổ chứ c sá ng tá c” . Sau lưng nó có môt

cái ta rôn

g lớn , làm

nền cho cuôc

đấu tranh, và cuộc chiến đấu bắt đầu :

“ Dĩ vãng buồn thương mang lá ̀ đen,

Đến là m giăc giữa lòng ta. Ta bắn chết.

Đời rực rỡ phù sa, ta kiến thiết

Những phố phườ ng da thiṭ ử ng hồng lên.

( Vàng của lòng tin – Ánh sáng và phù sa )

Ở đây ta thấy “ Dĩ vãng buồn thương của tác giả chính là cái tôi – điêu tàn, cái tôi – quá khứ”. ChữTa” ở đây chính là cái tôi chiến sĩ . Đời rực rỡ phù sa chính là lực lượng hậu bị bên ngoài. Cái tôi chiến si ̃ là cái tôi “đi ra vớ i


đờ i, đi ra vớ i ngườ i”, là nhân vật trữ tình gắn bó chặt chẽ với những nhân vật

khác, với cái ta rông lớn trong thơ . Khi cái tôi đã hòa vào cái ta thì dòng suy

nghĩ tưởng sẽ trở nên mềm mại hơn nhờ trí tưởng tương bay bổng . Cái Tôi

không còn cảm thấy bi ̣gò bó ̉i cái ta hay bởi chính mình . Trí tưởng tượng

phóng túng bấy giờ thấy mình thực sự tự do , như con “ chim lươn trên mình Tổ quốc, bay đi tìm hình ảnh đẹp” [ 43,155]

“Tâm hồn tôi khi Tổ quốc soi và o,

trăm vòng

Thấy ngà n nú i trăm sông diêm

lê.̣

Con ngoc

trai đêm hè đá y bê,̉

Uống thủy triều bôn

g sá ng hat

châu”.

( Chim lươn

trăm vòng – Ánh sáng và phù sa)

Trong thơ Chế Lan V iên cái tôi luôn có sự vân

đôn

g , biến hóa “ Cái

tôi” trữ tình ấy có khi không còn là kẻ ngắm nhìn , ngơi ca bên ngoài , mà nó

là chiếc cầu nối giao hòa giữa hai miền không gian và thời gian xa cách lại

gần nhau.Tưởng như nếu vắng nó thì bài thơ không thế ra đời đươc phương tiêṇ , vì không có chiếc cầu liên tưởng :

“ Tôi đi từ ...

vì thiếu

Đi từ nơi anh hù ng Nú p cầm lai vũ khí năm xưa

ngày nay trăm lần sắc bén Đi từ nơi CuBa thành tiếng rung động thiêng liêng

trong ba mươi triêu

trá i tim ngườ i

Đến đất nướ c anh hù ng moc lên giữa sóng

Đến xứ nà y tìm đến Viêt

Nam tôi.

( Tôi đi từ ... Tôi đến – Hoa ngày thường...)

Càng về cuối chăṇ g đường thơ chống Mỹ ́ u nước thì cái tôi trên đây càng có xu hướng khuất dần trước cái Ta, và Chế Lan Viên để cho nó dần thu


mình vào trong những chủ đề nho nhỏ, những bài “ tiểu thi”. Nhưng cái tôi đo sẽ phục sinh hoàn toàn trong “ Di cảo thơ” [43,156]

Đến những bài thơ trong tâp

thơ “ Những bà i thơ đá nh giăc

” ta không

thấy cái tôi xuất hiên

trưc

tiếp nữa . Trong những bài thơ chính luân

thì điều

đó hoàn toàn phù hơp

. Thơ chính luân

thường thiên về biểu hiên

môt

cách

khách quan và trực tiếp các quan điểm tư tưởng của một tầng lớp , môt giai

cấp hay của môt

quốc gia nhất điṇ h . Do vâỵ , có thể nói tác giả thơ chính luận

là người phát ngôn các qua n điểm chính tri ̣bằng thơ . Các nhà thơ chính luận

thường phải cố giấu mình đi để nhân danh cái Ta rông lớn khi tuyên chiêń với

kẻ thù . “Khi cá i tôi nhà thơ không trưc

tiếp thể hiên

trong thơ thì cá i tôi trư

tình trở nên ẩn khuất. Khi nà o tá c giả cố ý để cho cá i tôi xuất đầu lộ diên thì

vô tình anh ta đã thêm và o môt

dấu “ +” giữa thơ và chính luân

. Cái dấu

côn

g ấy không gắn đươc

, mà trái lại nó tách thơ ra khỏi chính luận . Thơ thì

cần cái tôi, chính luận thì cần cái ta. Vì trong cái ta của thơ chính luận đã có

thể só cá i tôi rồi , cho nên cá i tôi và cá i ta sẽ quyên

chăt

và o nhau trong thơ

chính luận khi cái tôi rồi , cho nên cá i tôi và cá i ta sẽ quyên

chăt

vào nhau

trong thơ chính luân khi cá i tôi trữ tình ẩn khuất . Có như thế mạch suy tưởng

trong thơ chính luân

́ i mang tính chất tổng hơp

, khái quát, mà không rơi

vào tính cá thể của cái riêng” [43,157]

Trong thơ chính luân

vì đăṭ nhiêm

vu ̣thể hiên

tư tưởng dân tôc

đất

nước lên làm nhiêm

vu ̣tron

g yếu , cho nên cái tôi trữ tình thường phải ẩn đi ,

nhường chỗ cho cái ta lên ngôi. “ Khả năng thuyết phuc của thơ chính luân la

ở tính chất khách quan h óa của các quan điểm tư tưởng , tính chính xác của

những luân

điểm chính tri ̣mang tư tưởng khoa hoc

cá ch man

g , tính tất yếu

của một xu thế thời đại mà thơ ca làm nhiệm vụ tiên tri . Sẽ trở nên cô đơn và yếu ớ t, nếu tá c giả thơ ca lại đứng ở góc độ cá nhân để lên án cả một thế lực ,

môt

chính quyền. Tác giả phải nhân danh giai cấp , dân tôc

,... để tấn công kẻ


thù . Cho nên trong suy tưởng tổng hơp

, tác giả cần giấu mình đi để cho

những quan điểm đườ ng lối thât sự mang tính khá ch quan như là sự phản á nh

các quy luật đấu tranh xã hội” [ 43,158]

Nếu trước đây thơ Chế Lan Viên nhìn đất nước bằng con mắt đầy thơ

môn

g, nhớ thương thì giờ đây khi đươc

ánh sáng của C ách Mạng, của Đảng

và Bác soi rọi thì nhà thơ đã có những suy nghĩ về đất nước về dân tộc rất sâu

sắc. Hình ảnh đất nước , Tổ quốc luôn đươc

thể hiên

gắn với sự vươn lên sư

đổi thay của chính nhà thơ . Thơ Chế Lan Viên đ ã thoát khỏi phòng nhỏ bé để

“lươn

trăm vòng trên Tổ quốc mênh mông”. Khi đã vươt

khỏi cái riêng tư, cái

Tôi” nhỏ bé đến với cái “ Ta” rôn

g lớn của quần chúng , nhà thơ đề cập đến

những vấn đề có tính chất chân li, gần với chân li.

́i tâp

thơ “ ̉ i cá c anh ”, Chế Lan Viên đã bôc

lô ̣tình cảm tha thiết

́i đất nước, với dân tôc

đã dôi

vào thơ Chế Lan Viên những âm hưởng khỏe,

những hình ảnh đep . Đó là những “ngườ i anh du kích ” kiên cường , với tấm

áo nâu vá rách cởi lại cho em đêm cuối cùng ra trận . Đó là những “ thằng em

liên lac

” băng rừ ng râm

̀ ng thưa , khiến ta nhớ đến em Lươm

́i “ cái chân

thoăn thoắt , cái đầu nghênh nghênh” trong thơ Tố Hữu . Nhà thơ nhớ mế ,

những “năm con đau mế thứ c môt mù a dà i ”, thương những anh dân công

“măt

đỏ sắc hồng ”...Những con người đáng yêu , đáng tron

g ấy , trong cuôc

kháng chiến vĩ đại, đã đi vào tâm hồn, thơ ca của nhiều nhà thơ. Chế Lan Viên

đã thể hiên sự yêu mêń về ho ̣với những tình cảm chân thành nhất trong

những vần thơ của mình. Trong những tâp thơ chống Mỹ, bạn đọc rất khó tìm

thấy những hình ảnh môt bà me ̣ , người anh , thằng em nào cu ̣thể . Không co

môt ngư ời anh hùng có tên tuổi nào , chỉ có nhân dân Việt Nam anh hùng .

Không như những nhà thơ khác , Chế Lan Viên thường đi từ cái khái quát đến cái cụ thể. Nhà thơ đã thể hiện được một cách đầy đủ và sinh động chủ nghĩa anh hù ng cách maṇ g trên đất nước ta . Chủ nghĩa anh hùng này đã xây dựng


nên hình ảnh tuyệt đẹp của một đất nước anh hùng , nhân dân anh hùng . Nhà

thơ phải thưc

sự gắn mình vào cuôc

sống , chiến đấu của dân tôc

thì ́i thể

hiên

đươc

hình ảnh ấy.

Chế Lan Viên đã nhìn đất nước bằng môt

cái nhìn toàn ven

, nhà thơ đã

phát hiện ra dáng vóc lớn lao và vẻ đep

diêu

kỳ của đất nước trong những

ngày đánh Mỹ. Đó là hình ảnh của môt

sự kết tinh tron

vẹn với dáng đứng của

hình sông thế núi . Nhà thơ cảm thấy tự hào khi nhận thấy Tổ quốc Việt Nam

hiên

lên dáng đứ ng hùng dũng:

“Trong cá i thế bao đờ i qua đây là lú c DÁNG ĐỨ NG VIÊṬ


Cái dáng đứng Hùng Vương, cái dáng đứng Hồ Chí Minh,


NAM

ta đep̣


nhất.


In lên từ lãnh tu ̣ tối cao đến môi

cái dáng đứng Mác Lênin ngườ i chiến sỹ không tên”.

(Đối thoại mới.Tr.31)

Vẻ đẹp ấy đã được tô đậm bằng lòng biết ơn , tự hào đối với truyền

thống lic̣ h sử của dân tôc̣ . Những trân đánh, từ ng chiêń công oanh liêṭ của cha

ông đã đươc

nhà thơ Chế Lan Viên trân tron

g khi nhắc laị bằng những hình

ảnh rất kỳ vĩ:


“Khi Nguyên


Trãi là m thơ và đá nh giăc

Nguyên

Du viết Kiều đất nướ c hóa thà nh văn

Khi Nguyên

Huê ̣cưỡi voi và o cử a Băc

Hưng Đao

diêt

quân Nguyên trên sông Bạch Đằng”.

(Hoa ngày thường –chim báo bao

.Tr.95)

Nhà thơ đã thực sự hòa mình vào cuộc chiến đấu của dân tộc khi ca

ngơi

chủ nghia

anh hùng Cách Maṇ g . Chế Lan Viên đã tỏ ra trân tron

g khi ca

ngơi

dân tôc

, nhà thơ “cầm hat

thóc trên tay ” mà thấy “ năn

g má u ngườ i đã

khuất”


Tiểu kết chương 2:

Cảm hứng lịch sử và thời đại có ảnh hưởng sâu sắc đến sự nghiệp sáng

tác của Chế Lan Viên . Giai đoan

“Điêu tà n”, tư duy thơ Chế Lan Viên siêu

hình về phươn g diên

triết hoc

khi đăṭ câu hỏi “Ta là ai” môt

cách cưc

đoan

thần bí , ông đã để mình rơi vào “trân

đồ bá t quá i” môt

cách điên cuồng ,

tuyêṭ von

g . Tác giả “Điêu tà n” đã chìm đắm vào vũ tru ̣bao la , lắng nghe

tiếng gào thả m thiết của ma quỷ và xương máu . Hướng về dân tôc

Chiêm

Thành đã bị vùi sâu vào dĩ vãng . Hướng về quá khứ dân tôc Chàm , Chế Lan

Viên đã để cái buồn đến nhanh chóng và ̃ dôị, đau đớn, đến không còn nhận ra là mình nữa “Ai bảo giù m: Ta có ta không?”.

Chế Lan Viên sử dun

g tư duy nghê ̣thuâṭ tươn

g trưng trong “Điêu tà n”:

như môt

thủ pháp quan tron

g cấu hình nên tác phẩm . Cái tôi nội cảm sâu sắc

không hề đơn giản của Chế Lan Viên tao và gần gũi.

ra môt

hồn t hơ vừ a la ̣vừ a chân thât

́i Chế Lan Viên , thi ca có thế là phương tiên đưa con người đêń với

thế giới mông lung , lạ lùng. Ở đó, chủ thể trở thành sức mạnh siêu hình linh

thiêng, huyền bí tươn

g trưng cho tâm tran

g buồn đau đến kiêṭ cùng . Những

hình ảnh mơ hồ , tương trưng , khó xác định xuất hiện trong thơ ông tạo nên

chất thơ đôc

đáo khó trôn

lân.

Tuy nhiên khi cách maṇ g đến , như môt vầng sáng keó nhà thơ ra khỏi

con đường laṇ h leo , bế tắc của “Điêu tà n”. Hồn thơ Chế Lan Viên đã hoàn

toàn đổi khác . Nhà thơ không những thay đổi đời , thay đổi thơ mà vinh dư

hơn, ông đã tao

đươc

môt

trời sao lấp lánh thơ ca . Hòa trong cuộc sống Cách

mạng, Chế Lan Viên đã điṇ h hướng môt

tư duy nghê ̣thuâṭ mới dưa

trên hiên

thưc

́i của cuôc

sống Cách maṇ g . Đó là tư duy duy vâṭ biên

chứ ng và

duy duy vâṭ lic̣ h sử . Cái tôi trong thơ Chế Lan Viên có sự chuyển biến từ cái tôi cô đơn đến cái tôi hòa nhập.



THỂ LOAI

CHƯƠNG 3

, NGÔN NGỮ , BIỂ U TƯƠN


G TRONG THƠ

CHÍNH LUẬN CHẾ LAN VIÊN

Chúng ta biết rằng tác phẩm nghê ̣thuâṭ chính là môṭ


chỉnh thể đươc


tao

̀ nhiều yếu tố nôi

dung và hình thứ c . Chế Lan Viên rất coi tron

g nôi

dung

của tác phẩm, tuy nhiên ông cũng có nhiều tìm tòi sáng tao về hình thứ c trong

quá trình sáng tác. Qua những yếu tố cấu thành như : thể thơ, ngôn ngữ, hình

ảnh, biểu tươn

g nôi

dung tác phẩm đươc

nổi bâṭ lên

3.1. Thể thơ

3.1.1.Thơ tư ̣ do

“Thơ tự do là loai

thơ không có quy điṇ h bắt buôc

về số câu , số chư

trong câu, về vần , bằng chắc và nhip̣ đều có thể thay đổi tùy thuộc cảm xúc.

điêu

. Tất cả cá c yếu tố hình thứ c nà y

Thơ tự do ra đờ i để đá p ứ ng nhu cầu diên

đat

tình cảm không giớ i han

của con người hiện đại , giải phóng cảm xúc khỏi sự ràng buộc chặt chẽ bởi

các quy tắc về hình thức , nghĩa là đề cao yếu tố cảm xúc , yếu tố trữ tình. Thơ

tự do thườ ng để cảm xú c chi phối mac

h thơ . Cho nên nhip

thơ và số lương

chữ trong câu biến hóa rất linh hoạt, vần không cố điṇ h” [38,180].

“ Thơ tự do phân biêt

́ i thơ cá ch luât

ở chỗ không bi ̣rà ng buôc

̉i

các quy tắc nhất định về số câu, số chữ , niêm đối” ... Nhưng thơ tự do khá c thơ văn xuôi ở chỗ văn bản có phân dòng và xếp song song thà nh hà ng, thành

khổ như những đơn vi ̣nhip

điêụ , có thể có vần”... “Thơ tự do xuất hiên

̀ nhu

cầu đòi hỏ i thơ đi sá t cuôc đờ i hơn , phản ánh được những cách nhìn nghệ

thuât

́ i của nhà thơ” [17,217,218].

Như chúng ta biết, do hoàn cảnh và nhu cầu thay đổi của xã hôi


mà nhiều

thể thơ đã xuất hiêṇ . Thơ tự do và thơ thơ văn xuôi là loại xuất hiện muộn. Thơ


tự do đã xuất hiên

̀ trước cách maṇ g tháng Tám và ngày càng đươc

̉ dung

rôn

g raĩ , chiếm môt

tỉ lê ̣lớn trong thời hiên

đa.ịĐặc biệt từ sau năm1945, thơ tư

do đã chiếm ưu thế so với các thể thơ khác. Đến với thể loaị thơ tự do, các nhà

thơ có điều kiên

thuân

lơi

để phát triển mac̣ h cảm xúc thoải mái mà không bi ̣lê

thuôc

vào môt

luâṭ lê ̣nào, không bi ̣han

điṇ h về số câu, số tiếng...

Nhìn một cách khá i quát sự nghiêp sáng tác thơ ca của Chế Lan Viên ,

chúng ta đều thừa nhận rằng nhà thơ có một sức sáng tạo vô cùng dồi dào và thành công trên mọi phương diện.

“Chế Lan Viên là môt

trong những ngườ i mở đườ ng và dân

đườ ng c ho

thể thơ tự do, đã có những thể nghiêm đầu tiên và đã đi đến cù ng của sự sá ng

tạo thể loại. Điều quan tron

g hơn đối vớ i Chế Lan Viên là sự thà nh công chắc

chắn – thơ tự do đã trở thà nh môt

thưc

thể , hơn thế , môt

chủ thể , có đời

sống, vai trò của nó trong thơ Chế Lan Viên nói riêng và trong nền thơ mớ i nói chung. Nó mang những đặc sắc nghệ thuật rõ rệt và nhiều phẩm chất của

nó đã trở thành tiêu chí cho thơ tự do hiên

đai

Viêt

Nam” [14,167].

Bằng tài năng sáng tao nghê ̣thuâṭ của mình , Chế Lan Viên đêń với thể

thơ tự do và đã góp phần khẳng điṇ h vai trò , vị trí của thơ tự do trong nền thơ

ca hiên

đaị Viêṭ Nam . Trong sự nghiêp

sáng tác của Chế Lan Viên chúng ta

không thể không nhắc đến những bài thơ đươc

viết theo thể thơ tự do như :

đất đến bình, Vòng cườm trên cổ chim cu, Con cò, Chim vít vít, Hoa sú ng tím, Gió lật lá sen hồ, Tháp cao tăng...

Thơ tự do Chế Lan Viên có n hững đăc

điểm nổi bâṭ sau : Câu thơ đươc

̉ rôn

g dung lươn

g phản ánh

Chúng ta thấy rằng một ưu thế rất lớn của thơ tự do là sự phóng túng

trong câu chữ . Điều này sẽ giúp nhà thơ dễ dàng diên đaṭ những traṇ g thái

tình cảm nhờ vào sự phá cách trong sự gieo vần , ngắt nhip̣ , đan xen các thể

thơ môt

cách linh hoat

. Chế Lan Viên không chỉ vân

dun

g thành công ở

Xem tất cả 131 trang.

Ngày đăng: 19/02/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí