tòi sáng taọ để thể hiện cho một phong cách phong phú đa dạng trong tác
phẩm của mình . Nhà thơ đã sử dụng triệt để chất chính luận để biểu dương ca
ngơi
chủ nghĩa anh hùng Cách m ạng của nhân dân , để tố cáo và vạch mặt kẻ
thù. Với những sáng tao
của môt
cách biểu hiên
mới trong thơ Chế Lan Viên ,
chất chính luân
Có thể bạn quan tâm!
- Cảm Hứng Dân Tộc Thời Đại Và Tư Duy Biện Chứng Lịch Sử
- Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 11
- Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 12
- Một Số Hình Ảnh Biểu Tượng Trong Thơ Chính Luận Chế Lan
- Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 15
- Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 16
Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.
đã tao
sự cứ ng rắn , đanh thép cho mỗi câu thơ , mỗi hình
tươn
g thơ. Những câu thơ cương quyết , dứ t khoát như môt
châm ngôn hành
đôn
g, môt
khẩu hiêụ :
“Hãy giết chú ng như thiên thần giết quỷ.
Trên môi
xá c thù hon
g sú ng phải reo ca”.
Bàn thẳng tới các vấn đề củ a cuôc
sống môt
cách nồng nhiêṭ , nhà thơ
đã lý sự, chứ ng minh. Chế Lan Viên đã công khai đứ ng ra biên
luân
cho moi
chân lý, mọi phương tiện, mọi hình thức nghệ thuật. Tất cả đều nhằm phuc vu
cho muc
đích của sự biên
luân
và chứ ng minh.
Trước mỗi hiên
tươn
g, mỗi vấn đề của cuôc
sống xã hôị , Chế Lan Viên
đều có những tìm tòi sáng tạo nghệ thuật , Chế Lan Viên đều muốn đi sâu vào tìm hiểu các bản chất , cái cốt lõi để từ đó phát hiện ra những cái mới có ý
nghĩa sáng tao
nghê ̣thuât
. Người nghê ̣si ̃ phải luôn luôn thay đổi cách viết ,
cách biểu hiện trước cuộc sống muôn màu sắc với đầy đủ những dáng vẻ của nó để theo kịp yêu cầu đó, Chế Lan Viên cho rằng:
“Dù là ngoc thì cũng nhiều viên ngoc.
Chứ phải đâu cứ xanh xanh vin
h viên
môt
mà u trờ i”
(Đối thoại mới-Tr 132).
Để đaṭ đươc
hiêu
quả nghê ̣thuâṭ trong chính luân
, Chế Lan Viên luôn
sử dun
g môt
lối cấu tứ mới trong thơ . Đó là lối kết cấu tổng hơp
v ới những
suy nghi ̃ sâu sắc của nhà thơ . Chủ đề của bài thơ thường được nhà thơ diễn
giải, đươc
triển khai rất rôn
g theo kiểu “ phác thảo” hoăc
“ phản diễn ca hay
phản diện ca ”. Trong thơ mỗi ý đều đươc
nhân lên, đươc
mổ xẻ, nhìn nhận từ
nhiều góc đô ̣, nhiều khía caṇ h khác nhau. Để đat
đươc
yêu cầu của hiên
thưc,
mỗi vấn đề đó laị đươc nhà thơ đăṭ trong mối tương quan , trong quan hê ̣tác
đôn
g qua laị với các vấn đề , các hiện tượng khác . Trong thơ chính luân
Chế
Lan Viên, xuất phát từ ý muốn trình bày những quan điểm của mình về cuôc sống, về chính tri ̣, về con người nên cảm xúc thường lùi laị phía sau để
nhường chỗ cho lý trí , cho những suy nghi ̃ của nhà th ơ. Để thể hiên những
quan điểm, những vấn đề có ý nghia
gần với cuôc
sống , trong thơ Chế Lan
Viên thường đi từ những cái khái quát , cái có ý nghĩa xã hội lớn lao . Đúng
như nhân
xét “ chỗ xuất phá t của thơ anh là khá i qu át đã được thừa nhận , tư
đó goi
về những hình ảnh sắc cạnh, những cảm nghĩ đôt
xuất là m cho ý nghia
khái quát như được sống lại trong đời sống cụ thể”.
Tính sự kiện , tính thời sự cao cũng là đặc điểm tiêu biểu tro ng thơ chính luận Chế Lan Viên . Nhà thơ đã mở rộng câu thơ để ôm trùm một hiện
thưc
rôn
g lớn với tất cả những biến đôn
g của nó . Những bài thơ đươc
viết
dưới daṇ g bình luâṇ , phác thảo đã phản ánh kịp thời những diễn biến của cuộc
chiến đấu, đã đaṭ đươc
tính chân thưc
của hình tươn
g thơ.
Về hình thứ c , câu thơ Chế Lan Viên cũng đã có những sáng tao mới .
Nhà thơ đã sử dụng những ngôn ngữ của cuộc sống , các thuật ngữ triết học ,
kinh tế , quân sự, tôn giáo ...trong viêc
thể hiên
hình ảnh thơ . Điều ấy khiến
thơ Chế Lan Viên đã phá vỡ đươc
nhip
điêu
và khuôn khổ quen thuôc
của thơ
truyền thống . Trong thơ Chế Lan Viên đã có môt
cuôc
cách maṇ g về ngôn
ngữ thơ - đó là sự đổi mới . Trong những bài thơ như “ Con me ̣điên ”, “chử a
đẻ chiến tranh” ....ngôn ngữ của đời sống hàng ngày đươc
Chế Lan Viên vân
dụng trong việc thể hiện bộ mặt kẻ thù . Những thuâṭ ngữ triết hoc
, quân sự,
tôn giá o đươc
Chế Lan Viên sử dun
g để vac̣ h rõ tính chất nguy hiểm trong
cuôc
chiến tranh của đế quốc Mi ̃, song song với viêc sử dun
g ngôn ngữ đó la
viêc
sử dun
g những ngôn ngữ và cách so sánh dân gian để tao
nên những gia
trị thẩm mỹ mới cho ngôn ngữ thơ . Điều đó tao ngữ thơ Chế Lan Viên .
nên sự đa daṇ g trong ngôn
Chế Lan Viên cũng hay sử dun
g những điển cố và những tư liêu
lic̣ h sư
để thể hiện trong khi ca ngợi Tổ quốc và nhân dân anh hùng:
“Môi chú bé nằm mơ ngựa sắt.
Môi
con sông đều muốn hóa Bac
h Đằng”
(Hoa ngày thường – chim báo bao
-Tr 97).
Với “ cái nhìn sử thi ”cùng với những chất liêu lic̣ h sử trong truyêǹ
thống lic̣ h sử của dân tôc
cũng đươc
nhà thơ khai thác môt
cách triêṭ để và sư
dụng một cách nhuần nhuyễn . Cách cảm thụ mới gắn liền với thời đại mới ,
xứ ng đáng với tầm vóc lic̣ h sử của dân tôc
, làm sống lại truyền thống của cha
ông môt
thời:
“Ta ra đi từ nền văn minh trên lưu vưc Cả dân tộc bay theo hình chim Hạc”.
sông Hồng.
Các câu thơ củ a Chế Lan Viên đã có môt sứ c sống riêng, sứ c sống bay
bổng riêng với chất thơ nôi
taị của nó , đươc
tao
nên bởi sự vân
đôn
g ngôn
ngữ và hình ảnh thơ mớ i, cùng với những chọn lọc sáng tạo trong việc thể
hiên
những hình tươn
g thơ:
“Ôi !Trườ ng Sơn vĩ đai
của ta ơi!
Ta tưạ Ta dưa
và o ngươi ké o phá o lên đồi. và o Đảng ta lên tiếng há t
Dướ i chân ta đến đầu hà ng Đờ cá t.
(Hoa ngày thường –chim báo bao
Tr 97).
Chế Lan Viên đã dùng nhiều cách nói : nói bóng, nói lượn quanh, dùng
nhiều cách đối chữ , đối hình ảnh trong khi xây dưn
g hình tươn
g thơ . Do vây
hình tượng thơ đã có một sức sống, môt
sắc màu đôc
đáo không thể trôn
lân:
“Đà Nẵng đây chỉ môt nghìn quân mà mườ i muôn lính nguy
chưa hoà n hồn.
Tổ quốc thu về bá n đảo Sơn Trà và những Ngũ Hành Sơn”.
(Hát theo mùa,Tr 114).
Để phản ánh nhanh nhất và đầy đủ nhất những biến đôn
g của cuôc
sống
, đòi hỏi thơ phải có những đổi mới phù hơp
với hiên
thưc
chiến đấu vi ̃ đai
của dân tộc “ chất văn xuôi đã thâm nhâp
vào thơ như một nhân tố , môt
chất
liêu
không trá nh khỏi khi thơ đi và o cuôc
sống thưc
tế thà nh môt
hướ ng lớ n ,
môt
quy luât
phá t triển”
Chế Lan Viên đã tao
đươc
những câu thơ bề thế có sự sáng tao
, có sức
phóng túng ngan g doc
mà vân
đảm bảo đươc
sự nhip
nhàng của tiết tấu , câu
thơ vân
giữ đươc
chất thơ nôi
taị của nó . Trong thơ văn xuôi của Chế Lan
Viên chất thơ đã đươc phát huy , để câu thơ có một màu sắc riêng , hoàn cảnh
và tứ thơ được sáng tạo trên góc độ quan sát và lối suy nghĩ sắc sảo của nhà
thơ. Những hình ảnh đươc
Chế Lan Viên so sánh theo môt
cách riêng , đươc
biểu hiên
bằng môt
ngôn ngữ riêng . Câu thơ đươc
cách điêu
hóa và lý t ưởng
hóa để phục vụ mục đích của tác giả . Cấu trúc của các câu thơ gần giống với cấu trúc của văn xuôi nhưng nhờ những cảm xúc chân thành nên laị chứ a
đưn
g nhiều chất thơ qua hình ảnh, liên tưởng và so sánh có màu sắc riêng.
“Những ngườ i dân chưa đến Đống Đa,
chưa đoc
Nguyên
Du – chưa thăm mộ Vua Hù ng.
Nhưng chân đất của họ là m trăm cứ điểm thù sup̣ Họ là nhân dân: phá tất cả và xây nên tất cả Mảnh đất này còn nóng bỏng lửa Quang Trung”.
đổ
(Những bài thơ đánh giăc
–Tr 69).
Trong thơ Chế Lan Viên điểm đáng chú ý nhất đó là “tính chất đôc đá o
và khái quát trong nhiều hình ảnh thơ Chế Lan Viên có quan hệ với nhau rất
mât thiết”.[31,181]. Trong thơ Chế Lan Viên h ình tượng thơ được phát triển
thành nhiều tuyến bổ sung xen kẽ lẫn nhau , nhiều khi đối lâp nhau. Do vây đa
gây đươc
nhiều liên tưởng nơi người đoc
. Bao giờ hình ảnh thơ cũng được
chọn lọc và cân nhắc rất kỹ lưỡng . Các hìn h ảnh trong thơ Chế Lan Viên
thường đươc
đăṭ trong mối liên hê ̣bất ngờ và đôc
đáo . Chế Lan Viên đã đăt
hai sự vâṭ hết sứ c khác la ̣, không có mối liê n hê ̣kề bên nhau rồi phát hiên
ra ,
tạo mối quan hệ giữa hai vật chất ấy th eo mối liên tưởng đôc cảm rất cao:
đáo có sưc gơi
“Anh bôn
g nhớ em như đông về nhớ ré t.
Tình yêu ta nhưu cánh kiến hoa vàng Như xuân đến chim rừ ng lông trở biếc Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”
(Ánh sáng và phù sa .Tr.24)
Trong thơ chính luân Chế Lan Viên hình thứ c cơ bản là kêt́ cấu tương
phản. Viêc
sử dun
g kết cấu này có tác dun
g nâng hình tươn
g thơ . Trong thơ
Chế Lan Viên thường có môt sự đối l ập, có thể đó là đối lập về thời gian, đối
lâp
trong lòng người . Qua đó để thể hiên
những biến đổi về đất nước, của tâm
hồn nhà thơ. Chế Lan Viên đã sử dun
g sự đối lâp
giữa cái nhỏ bé và cái vi ̃ đaị,
giữa cái mất mát và cái anh hừ ng , giữa chính nghia và phi nghĩa...để ca ngợi
đất n ước anh dũng trong đau thương . Sử dun
g những đối lâp
đó đã nói lên
đươc
quy luâṭ phát triển cơ bản của sự vât
, tác động mạnh mẽ đến trí tưởng
tươn
g của ban
đoc
. Chế Lan Viên đã quan sát , nắm bắ t đươc
quy luâṭ của
cuôc
sống và sự thưởng thứ c trong nghê ̣thuâṭ để từ đó đi đến những đối lâp
đôc
đáo mới mẻ và táo bao
. Dưa
trên sự đối lâp
ấy, nhà thơ đã tao
đươc
tính
đa diêṇ , sứ c biến hóa và chiều sâu tư tưởng:
“Xưa cha ông đi mà nay con chá u bắt đầu bay”
Hay:
“Ngườ i ngã xuống tưa
má u mình đứ ng dây
Ngườ i sống khiêng ngườ i chết để xung phong”
(Hoa ngày thường-Chim báo bao
.Tr .61)
Điều khiến “câu thơ không bi ̣khuôn và o số chữ , nhất điṇ h mà vươn ra
hết sứ c dà i rôn
g . Chữ nghia
cũng đươc
căng ra , đươc
tôi lên sá ng bóng ” -
Vương Trí Nhàn [35,23], là do Chế Lan Viên đã sử dung nhiều ẩn dụ trong
quá trình triển khai tứ thơ . Để tao
nên những câu thơ đôc
đáo và h iêu
qua
nghê ̣thuâṭ chiến đấu của thơ, tác giả đã viết những câu thơ theo lối nghịch lý:
“Cá i hầm chông là điều nhân đ,ạo nhất”
Hoăc̣ :
“Khẩu sú ng ta ơi,khẩu sú ng rất nhân tình”
Những bài thơ của Chế Lan Viên rất giàu trí tuê,̣ giàu suy nghĩ. Sự suy nghĩ đó là cơ sở để tạo nên hình tượng thơ . Trong những sáng tác của mình , nhà thơ đã đưa sự suy nghĩ triết lý vào trong thơ để đạt những hiệu quả nghệ
thuâṭ cao. Đối với Chế Lan Viên , thơ không chỉ tái hiện những hình ảnh của
cuôc
sống, những rung đôn
g của trái tim mà phải phản ánh những rung đông
của cuộc sống, của tư duy con người. Thơ phải suy nghĩ về cuộc sống, về con người,về sự sống còn của dân tôc̣ . Trong thơ Chế Lan Viên sự suy nghi ̃ không phải chỉ là những suy nghĩ riêng tư của một cá nhân ,của bản thân nhà thơ mà
“những suy nghĩ ấy có khi vươt tầm khối óc của chú ng ta . Sung sướ ng thay
những lú c ấy ta thấy bên ta có sự suy nghĩ của toàn dân tộc” .[72, 15]. Chế
Lan Viên đã khái quát đươc
những suy nghi ̃, nhiều vấn đề trong cuôc
sống rồi
khái quát lên thành những vấn đề có ý nghĩa thiết thực đối với cuộc sống hiện
tại. Điều này đã khiến chấ t suy nghi ̃ trong thơ Chế Lan Viên mang môt bản
sắc rất riêng và giàu tính trí tuê ̣ . Chính vẻ đẹp của chất trí tuệ , của cảm xúc
những suy nghi ̃ trong thơ đã tao
nên sứ c thuyết phuc
của thơ ông trong lòng
bạn đọc. Đó là những suy nghi ̃ có tính chất nghi ̣luâṇ , phản bác sâu sắc có sức
lôi cuốn để hướng người đoc
tới môt
thái đô ̣đúng , môt
niềm tin vào lý tưởng,
vào Cách mạng . Hướng người đoc
tới môt
tr ách nhiệm đối với Tổ quốc , đối
với dân tôc
là điều mà nhà thơ điṇ h hướng trong mỗi vần thơ của mình:
“Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết.
Cho môi
ngôi nhà ngon
nú i con sông”
Chế Lan Viên khi vac̣ h măṭ kẻ thù , ông đã đối măṭ trưc tiêṕ với kẻ thu
đã không câu nê ̣vào vầ n điêu mạnh diệu kỳ:
. Những vần thơ chiến đấu của ông có môt
sứ c
“Ta chỉ có môt con đườ ng thôi ,giết mà y ta mớ i sống.
Qua xá c mà y ta trở lai
phòng ta”
(Những bài thơ đánh giăc̣ .Tr.120).
Trong môt
số bài thơ , đôi khi quá say sưa với viêc
biến thơ thành vũ
khí, Chế Lan Viên đã vô tình đẩy thơ thành sự gân guốc , thô thiển trong
những bài trưc
tiếp viết về kẻ thù:
“Mà y chả còn bè bạn, đồng minh nà o ngoà i lử a
Lử a và tôi á c là nhân tình bố me ̣của mày
Lử a ấy chỉ còn tro tà n bai vong là m kế tư
Bởi chưa đốt đươc
ngườ i thì mà y đã tan thây”
(Những bài thơ đánh giăc̣ .Tr .27)
Ở đây, chất chính luân đã hoàn toàn lấn át chất thơ, câu thơ mất đi cái
vẻ trang nghiêm uyên bác với những suy nghĩ sắc sảo mà đã trở thành những
lời chử i rủa có vẻ chanh chua , thô tuc của ngôn ngữ thường ngày:
3.3. Biểu tương
“Ních Xơn sinh và o buổi hoà ng hôn nướ c Mĩ Thiếu bá nh mà ăn thừ a gá i đi...
...Ri Sớ t sinh và o buổi tàn canh nướ c Mĩ Dù nước đái thần hay nước đái quỷ”
(Những bài thơ đánh giăc̣ .Tr.27)
3.3.1. Các quan niệm về biểu tượng nghệ thuật
* Biểu tươn
g dướ i góc đô ̣triết hoc
Theo từ điển triết hoc ( NXB sự thâṭ - 1972) do M.Rodentan và P.Iudin
chủ biên thì khái niệm biểu tượng được hiểu là : “Hình ảnh của thế giới bên
ngoài. Biểu tươn
g cù ng những cảm giá c và tri giá c tao
nên nhân
thứ c cảm
tính. Biểu tươn
g cù ng những cảm giá c và tri giác tạo nên nhận thức cảm tính.
Biểu tươn
g khá c ở hai đăc
điểm : Tri giá c phản á nh môt
sự thât
riêng lẻ tá c
đôn
g và o giá c quan của chú ng ta trong những trườ ng hơp
cu ̣ thể nhất điṇ h .
Biểu tươn
g là phản á nh khá i quá t hơn , trừ u tươn
g hơn” . Như vây
, theo triết
học biểu tượng là hình ảnh của sự vật lưu lại trong óc khi sự vật còn tác động đến các giác quan nữa, hình thức cao nhất của sự phản ánh trực quan cảm tính
xuất hiên
trên cơ sở tri giác. Khác với tri giác biểu tượng còn phản ánh rời rạc
các thuộc tính của sự vật , sự vâṭ phản ánh dưới hình thứ c biểu tương có tính
chỉnh thể. Biểu tươn
g là hình ảnh về sự vâṭ trong đầu óc , ý thức tư duy của
con người. Nhưng biểu tươn
g ở con người khác với ở những đôn
g vâṭ thường
đươc
boc
bằng môt
lớp vỏ ngôn ngữ và chứ a nhiều yếu tố của s ự phản ánh
khái quát. Biểu tươn
g là khâu trung gian giữa giai đoan
nhân
thứ c cảm tính va
giai đoan
nhân
thứ c lý tính.
* Biểu tươn
g dướ i góc đô ̣tâm lý, văn hóa
Điṇ h danh về biểu tươn
g , Từ điển Tiếng Viêt
đã đưa ra khái niêm
chung như sau: “Biểu tươn
g là hiên
tươn
g tâm sinh lí do môt
số viêc
ở ngoai
giớ i tá c đôn
g và o giá c quan khiến ý thứ c nhân
biết đươc
vât
kích thích hoăc
thấy hình ảnh của nó trở lai trí tuê ̣hay ký ứ c” [37,64].
Trong lý luận nhận thức, biểu tươn
g là hình thứ c cao nhất của giai đoan
nhân
thứ c cảm tính - trưc
quan . Trên cơ sở cảm giác , tri giác trong óc con
người xuất hiên
môt
hình thứ c cao hơn , đó là biểu tươn
g . Bởi bô ̣nao
con
người có khả năng tái sinh ra trong ý thứ c hình ảnh của đối tươn
g đã đươc
tri