Các Quan Niệm Về Biểu Tượng Nghệ Thuật


tòi sáng taọ để thể hiện cho một phong cách phong phú đa dạng trong tác

phẩm của mình . Nhà thơ đã sử dụng triệt để chất chính luận để biểu dương ca

ngơi

chủ nghĩa anh hùng Cách m ạng của nhân dân , để tố cáo và vạch mặt kẻ

thù. Với những sáng tao

của môt

cách biểu hiên

́i trong thơ Chế Lan Viên ,

chất chính luân

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.

đã tao

sự cứ ng rắn , đanh thép cho mỗi câu thơ , mỗi hình

Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 13

tươn

g thơ. Những câu thơ cương quyết , dứ t khoát như môt

châm ngôn hành

đôn

g, môt

khẩu hiêụ :

“Hãy giết chú ng như thiên thần giết quỷ.

Trên môi

xá c thù hon

g sú ng phải reo ca”.

Bàn thẳng tới các vấn đề củ a cuôc

sống môt

cách nồng nhiêṭ , nhà thơ

đã lý sự, chứ ng minh. Chế Lan Viên đã công khai đứ ng ra biên

luân

cho moi

chân lý, mọi phương tiện, mọi hình thức nghệ thuật. Tất cả đều nhằm phuc vu

cho muc

đích của sự biên

luân

và chứ ng minh.

Trước mỗi hiên

tươn

g, mỗi vấn đề của cuôc

sống xã hôị , Chế Lan Viên

đều có những tìm tòi sáng tạo nghệ thuật , Chế Lan Viên đều muốn đi sâu vào tìm hiểu các bản chất , cái cốt lõi để từ đó phát hiện ra những cái mới có ý

nghĩa sáng tao

nghê ̣thuât

. Người nghê ̣si ̃ phải luôn luôn thay đổi cách viết ,

cách biểu hiện trước cuộc sống muôn màu sắc với đầy đủ những dáng vẻ của nó để theo kịp yêu cầu đó, Chế Lan Viên cho rằng:

“Dù là ngoc thì cũng nhiều viên ngoc.

Chứ phải đâu cứ xanh xanh vin

h viên

môt

mà u trờ i”

(Đối thoại mới-Tr 132).

Để đaṭ đươc

hiêu

quả nghê ̣thuâṭ trong chính luân

, Chế Lan Viên luôn

̉ dun

g môt

lối cấu tứ ́i trong thơ . Đó là lối kết cấu tổng hơp

v ới những

suy nghi ̃ sâu sắc của nhà thơ . Chủ đề của bài thơ thường được nhà thơ diễn

giải, đươc

triển khai rất rôn

g theo kiểu “ phác thảo” hoăc

phản diễn ca hay

phản diện ca ”. Trong thơ mỗi ý đều đươc

nhân lên, đươc

mổ xẻ, nhìn nhận từ


nhiều góc đô ̣, nhiều khía caṇ h khác nhau. Để đat

đươc

yêu cầu của hiên

thưc,

mỗi vấn đề đó laị đươc nhà thơ đăṭ trong mối tương quan , trong quan hê ̣tác

đôn

g qua laị với các vấn đề , các hiện tượng khác . Trong thơ chính luân

Chế

Lan Viên, xuất phát từ ý muốn trình bày những quan điểm của mình về cuôc sống, về chính tri ̣, về con người nên cảm xúc thường lùi laị phía sau để

nhường chỗ cho lý trí , cho những suy nghi ̃ của nhà th ơ. Để thể hiên những

quan điểm, những vấn đề có ý nghia

gần với cuôc

sống , trong thơ Chế Lan

Viên thường đi từ những cái khái quát , cái có ý nghĩa xã hội lớn lao . Đúng

như nhân

xét “ chỗ xuất phá t của thơ anh là khá i qu át đã được thừa nhận , tư

đó goi

về những hình ảnh sắc cạnh, những cảm nghĩ đôt

xuất là m cho ý nghia

khái quát như được sống lại trong đời sống cụ thể”.

Tính sự kiện , tính thời sự cao cũng là đặc điểm tiêu biểu tro ng thơ chính luận Chế Lan Viên . Nhà thơ đã mở rộng câu thơ để ôm trùm một hiện

thưc

rôn

g lớn với tất cả những biến đôn

g của nó . Những bài thơ đươc

viết

dưới daṇ g bình luâṇ , phác thảo đã phản ánh kịp thời những diễn biến của cuộc

chiến đấu, đã đaṭ đươc

tính chân thưc

của hình tươn

g thơ.

Về hình thứ c , câu thơ Chế Lan Viên cũng đã có những sáng tao mới .

Nhà thơ đã sử dụng những ngôn ngữ của cuộc sống , các thuật ngữ triết học ,

kinh tế , quân sự, tôn giáo ...trong viêc

thể hiên

hình ảnh thơ . Điều ấy khiến

thơ Chế Lan Viên đã phá ̃ đươc

nhip

điêu

và khuôn khổ quen thuôc

của thơ

truyền thống . Trong thơ Chế Lan Viên đã có môt

cuôc

cách maṇ g về ngôn

ngữ thơ - đó là sự đổi mới . Trong những bài thơ như “ Con me ̣điên ”, “chử a

đẻ chiến tranh” ....ngôn ngữ của đời sống hàng ngày đươc

Chế Lan Viên vân

dụng trong việc thể hiện bộ mặt kẻ thù . Những thuâṭ ngữ triết hoc

, quân sự,

tôn giá o đươc

Chế Lan Viên sử dun

g để vac̣ h rõ tính chất nguy hiểm trong

cuôc

chiến tranh của đế quốc Mi ̃, song song với viêc sử dun

g ngôn ngữ đó la

viêc

̉ dun

g những ngôn ngữ và cách so sánh dân gian để tao

nên những gia


trị thẩm mỹ mới cho ngôn ngữ thơ . Điều đó tao ngữ thơ Chế Lan Viên .

nên sự đa daṇ g trong ngôn

Chế Lan Viên cũng hay sử dun

g những điển cố và những tư liêu

lic̣ h sư

để thể hiện trong khi ca ngợi Tổ quốc và nhân dân anh hùng:

“Môi chú bé nằm mơ ngựa sắt.

Môi

con sông đều muốn hóa Bac

h Đằng”

(Hoa ngày thường – chim báo bao

-Tr 97).

́i “ cái nhìn sử thi ”cùng với những chất liêu lic̣ h sử trong truyêǹ

thống lic̣ h sử của dân tôc

cũng đươc

nhà thơ khai thác môt

cách triêṭ để và

dụng một cách nhuần nhuyễn . Cách cảm thụ mới gắn liền với thời đại mới ,

́ ng đáng với tầm vóc lic̣ h sử của dân tôc

, làm sống lại truyền thống của cha

ông môt

thời:


“Ta ra đi từ nền văn minh trên lưu vưc Cả dân tộc bay theo hình chim Hạc”.


sông Hồng.

Các câu thơ củ a Chế Lan Viên đã có môt sứ c sống riêng, sứ c sống bay

bổng riêng với chất thơ nôi

taị của nó , đươc

tao

nên bởi sự vân

đôn

g ngôn

ngữ và hình ảnh thơ mớ i, cùng với những chọn lọc sáng tạo trong việc thể

hiên

những hình tươn

g thơ:

“Ôi !Trườ ng Sơn vĩ đai


của ta ơi!

Ta tưạ Ta dưa

và o ngươi ké o phá o lên đồi. và o Đảng ta lên tiếng há t

Dướ i chân ta đến đầu hà ng Đờ cá t.

(Hoa ngày thường –chim báo bao


Tr 97).

Chế Lan Viên đã dùng nhiều cách nói : nói bóng, nói lượn quanh, dùng

nhiều cách đối chữ , đối hình ảnh trong khi xây dưn

g hình tươn

g thơ . Do vây

hình tượng thơ đã có một sức sống, môt

sắc màu đôc

đáo không thể trôn

lân:

“Đà Nẵng đây chỉ môt nghìn quân mà mườ i muôn lính nguy


chưa hoà n hồn.

Tổ quốc thu về bá n đảo Sơn Trà và những Ngũ Hành Sơn”.

(Hát theo mùa,Tr 114).

Để phản ánh nhanh nhất và đầy đủ nhất những biến đôn

g của cuôc

sống

, đòi hỏi thơ phải có những đổi mới phù hơp

́i hiên

thưc

chiến đấu vi ̃ đai

của dân tộc “ chất văn xuôi đã thâm nhâp

vào thơ như một nhân tố , môt

chất

liêu

không trá nh khỏi khi thơ đi và o cuôc

sống thưc

tế thà nh môt

hướ ng lớ n ,

môt

quy luât

phá t triển”

Chế Lan Viên đã tao

đươc

những câu thơ bề thế có sự sáng tao

, có sức

phóng túng ngan g doc

mà vân

đảm bảo đươc

sự nhip

nhàng của tiết tấu , câu

thơ vân

giữ đươc

chất thơ nôi

taị của nó . Trong thơ văn xuôi của Chế Lan

Viên chất thơ đã đươc phát huy , để câu thơ có một màu sắc riêng , hoàn cảnh

và tứ thơ được sáng tạo trên góc độ quan sát và lối suy nghĩ sắc sảo của nhà

thơ. Những hình ảnh đươc

Chế Lan Viên so sánh theo môt

cách riêng , đươc

biểu hiên

bằng môt

ngôn ngữ riêng . Câu thơ đươc

cách điêu

hóa và lý t ưởng

hóa để phục vụ mục đích của tác giả . Cấu trúc của các câu thơ gần giống với cấu trúc của văn xuôi nhưng nhờ những cảm xúc chân thành nên laị chứ a

đưn

g nhiều chất thơ qua hình ảnh, liên tưởng và so sánh có màu sắc riêng.

“Những ngườ i dân chưa đến Đống Đa,

chưa đoc

Nguyên

Du – chưa thăm mộ Vua Hù ng.

Nhưng chân đất của họ là m trăm cứ điểm thù sup̣ Họ là nhân dân: phá tất cả và xây nên tất cả Mảnh đất này còn nóng bỏng lửa Quang Trung”.

đổ

(Những bài thơ đánh giăc

–Tr 69).

Trong thơ Chế Lan Viên điểm đáng chú ý nhất đó là “tính chất đôc đá o

và khái quát trong nhiều hình ảnh thơ Chế Lan Viên có quan hệ với nhau rất

mât thiết”.[31,181]. Trong thơ Chế Lan Viên h ình tượng thơ được phát triển


thành nhiều tuyến bổ sung xen kẽ lẫn nhau , nhiều khi đối lâp nhau. Do vây đa

gây đươc

nhiều liên tưởng nơi người đoc

. Bao giờ hình ảnh thơ cũng được

chọn lọc và cân nhắc rất kỹ lưỡng . Các hìn h ảnh trong thơ Chế Lan Viên

thường đươc

đăṭ trong mối liên hê ̣bất ngờ và đôc

đáo . Chế Lan Viên đã đăt

hai sự vâṭ hết sứ c khác la ̣, không có mối liê n hê ̣kề bên nhau rồi phát hiên

ra ,

tạo mối quan hệ giữa hai vật chất ấy th eo mối liên tưởng đôc cảm rất cao:

đáo có sưc gơi

“Anh bôn

g nhớ em như đông về nhớ ré t.

Tình yêu ta nhưu cánh kiến hoa vàng Như xuân đến chim rừ ng lông trở biếc Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương”

(Ánh sáng và phù sa .Tr.24)

Trong thơ chính luân Chế Lan Viên hình thứ c cơ bản là kêt́ cấu tương

phản. Viêc

̉ dun

g kết cấu này có tác dun

g nâng hình tươn

g thơ . Trong thơ

Chế Lan Viên thường có môt sự đối l ập, có thể đó là đối lập về thời gian, đối

lâp

trong lòng người . Qua đó để thể hiên

những biến đổi về đất nước, của tâm

hồn nhà thơ. Chế Lan Viên đã ̉ dun

g sự đối lâp

giữa cái nhỏ bé và cái vi ̃ đaị,

giữa cái mất mát và cái anh hừ ng , giữa chính nghia và phi nghĩa...để ca ngợi

đất n ước anh dũng trong đau thương . Sử dun

g những đối lâp

đó đã nói lên

đươc

quy luâṭ phát triển cơ bản của sự vât

, tác động mạnh mẽ đến trí tưởng

tươn

g của ban

đoc

. Chế Lan Viên đã quan sát , nắm bắ t đươc

quy luâṭ của

cuôc

sống và sự thưởng thứ c trong nghê ̣thuâṭ để từ đó đi đến những đối lâp

đôc

đáo mới mẻ và táo bao

. Dưa

trên sự đối lâp

ấy, nhà thơ đã tao

đươc

tính

đa diêṇ , sứ c biến hóa và chiều sâu tư tưởng:

“Xưa cha ông đi mà nay con chá u bắt đầu bay”

Hay:


“Ngườ i ngã xuống tưa


má u mình đứ ng dây


Ngườ i sống khiêng ngườ i chết để xung phong”

(Hoa ngày thường-Chim báo bao


.Tr .61)

Điều khiến “câu thơ không bi ̣khuôn và o số chữ , nhất điṇ h mà vươn ra

hết sứ c dà i rôn

g . Chữ nghia

cũng đươc

căng ra , đươc

tôi lên sá ng bóng ” -

Vương Trí Nhàn [35,23], là do Chế Lan Viên đã sử dung nhiều ẩn dụ trong

quá trình triển khai tứ thơ . Để tao

nên những câu thơ đôc

đáo và h iêu

qua

nghê ̣thuâṭ chiến đấu của thơ, tác giả đã viết những câu thơ theo lối nghịch lý:

“Cá i hầm chông là điều nhân đ,ạo nhất”

Hoăc̣ :


“Khẩu sú ng ta ơi,khẩu sú ng rất nhân tình”

Những bài thơ của Chế Lan Viên rất giàu trí tuê,̣ giàu suy nghĩ. Sự suy nghĩ đó là cơ sở để tạo nên hình tượng thơ . Trong những sáng tác của mình , nhà thơ đã đưa sự suy nghĩ triết lý vào trong thơ để đạt những hiệu quả nghệ

thuâṭ cao. Đối với Chế Lan Viên , thơ không chỉ tái hiện những hình ảnh của

cuôc

sống, những rung đôn

g của trái tim mà phải phản ánh những rung đông

của cuộc sống, của tư duy con người. Thơ phải suy nghĩ về cuộc sống, về con người,về sự sống còn của dân tôc̣ . Trong thơ Chế Lan Viên sự suy nghi ̃ không phải chỉ là những suy nghĩ riêng tư của một cá nhân ,của bản thân nhà thơ mà

những suy nghĩ ấy có khi vươt tầm khối óc của chú ng ta . Sung sướ ng thay

những lú c ấy ta thấy bên ta có sự suy nghĩ của toàn dân tộc” .[72, 15]. Chế

Lan Viên đã khái quát đươc

những suy nghi ̃, nhiều vấn đề trong cuôc

sống rồi

khái quát lên thành những vấn đề có ý nghĩa thiết thực đối với cuộc sống hiện

tại. Điều này đã khiến chấ t suy nghi ̃ trong thơ Chế Lan Viên mang môt bản

sắc rất riêng và giàu tính trí tuê ̣ . Chính vẻ đẹp của chất trí tuệ , của cảm xúc

những suy nghi ̃ trong thơ đã tao

nên sứ c thuyết phuc

của thơ ông trong lòng

bạn đọc. Đó là những suy nghi ̃ có tính chất nghi ̣luâṇ , phản bác sâu sắc có sức

lôi cuốn để hướng người đoc

́i môt

thái đô ̣đúng , môt

niềm tin vào lý tưởng,


vào Cách mạng . Hướng người đoc

́i môt

tr ách nhiệm đối với Tổ quốc , đối

́i dân tôc

là điều mà nhà thơ điṇ h hướng trong mỗi vần thơ của mình:

“Ôi Tổ quốc nếu cần ta chết.

Cho môi

ngôi nhà ngon

nú i con sông”

Chế Lan Viên khi vac̣ h măṭ kẻ thù , ông đã đối măṭ trưc tiêṕ với kẻ thu

đã không câu nê ̣vào vầ n điêu mạnh diệu kỳ:

. Những vần thơ chiến đấu của ông có môt

́ c

“Ta chỉ có môt con đườ ng thôi ,giết mà y ta mớ i sống.

Qua xá c mà y ta trở lai

phòng ta”

(Những bài thơ đánh giăc̣ .Tr.120).

Trong môt

số bài thơ , đôi khi quá say sưa với viêc

biến thơ thành vũ

khí, Chế Lan Viên đã vô tình đẩy thơ thành sự gân guốc , thô thiển trong

những bài trưc

tiếp viết về kẻ thù:

“Mà y chả còn bè bạn, đồng minh nà o ngoà i lử a

̉ a và tôi á c là nhân tình bố me ̣của mày

̉ a ấy chỉ còn tro tà n bai vong là m kế tư

̉i chưa đốt đươc

ngườ i thì mà y đã tan thây”

(Những bài thơ đánh giăc̣ .Tr .27)

Ở đây, chất chính luân đã hoàn toàn lấn át chất thơ, câu thơ mất đi cái

vẻ trang nghiêm uyên bác với những suy nghĩ sắc sảo mà đã trở thành những

̀i chử i rủa có vẻ chanh chua , thô tuc của ngôn ngữ thường ngày:


3.3. Biểu tương

“Ních Xơn sinh và o buổi hoà ng hôn nướ c Mĩ Thiếu bá nh mà ăn thừ a gá i đi...

...Ri Sớ t sinh và o buổi tàn canh nướ c Mĩ Dù nước đái thần hay nước đái quỷ”

(Những bài thơ đánh giăc̣ .Tr.27)


3.3.1. Các quan niệm về biểu tượng nghệ thuật

* Biểu tươn

g dướ i góc đô ̣triết hoc

Theo từ điển triết hoc ( NXB sự thâṭ - 1972) do M.Rodentan và P.Iudin

chủ biên thì khái niệm biểu tượng được hiểu là : “Hình ảnh của thế giới bên

ngoài. Biểu tươn

g cù ng những cảm giá c và tri giá c tao

nên nhân

thứ c cảm

tính. Biểu tươn

g cù ng những cảm giá c và tri giác tạo nên nhận thức cảm tính.

Biểu tươn

g khá c ở hai đăc

điểm : Tri giá c phản á nh môt

sự thât

riêng lẻ tá c

đôn

g và o giá c quan của chú ng ta trong những trườ ng hơp

cu ̣ thể nhất điṇ h .

Biểu tươn

g là phản á nh khá i quá t hơn , trừ u tươn

g hơn” . Như vây

, theo triết

học biểu tượng là hình ảnh của sự vật lưu lại trong óc khi sự vật còn tác động đến các giác quan nữa, hình thức cao nhất của sự phản ánh trực quan cảm tính

xuất hiên

trên cơ sở tri giác. Khác với tri giác biểu tượng còn phản ánh rời rạc

các thuộc tính của sự vật , sự vâṭ phản ánh dưới hình thứ c biểu tương có tính

chỉnh thể. Biểu tươn

g là hình ảnh về sự vâṭ trong đầu óc , ý thức tư duy của

con người. Nhưng biểu tươn

g ở con người khác với ở những đôn

g vâṭ thường

đươc

boc

bằng môt

́p vỏ ngôn ngữ và chứ a nhiều yếu tố của s ự phản ánh

khái quát. Biểu tươn

g là khâu trung gian giữa giai đoan

nhân

thứ c cảm tính va

giai đoan

nhân

thứ c lý tính.

* Biểu tươn

g dướ i góc đô ̣tâm lý, văn hóa

Điṇ h danh về biểu tươn

g , ̀ điển Tiếng Viêt

đã đưa ra khái niêm

chung như sau: “Biểu tươn

g là hiên

tươn

g tâm sinh lí do môt

số viêc

ở ngoai

giớ i tá c đôn

g và o giá c quan khiến ý thứ c nhân

biết đươc

vât

kích thích hoăc

thấy hình ảnh của nó trở lai trí tuê ̣hay ký ứ c” [37,64].

Trong lý luận nhận thức, biểu tươn

g là hình thứ c cao nhất của giai đoan

nhân

thứ c cảm tính - trưc

quan . Trên cơ sở cảm giác , tri giác trong óc con

người xuất hiên

môt

hình thứ c cao hơn , đó là biểu tươn

g . Bởi bô ̣nao

con

người có khả năng tái sinh ra trong ý thứ c hình ảnh của đối tươn

g đã đươc

tri

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 19/02/2024