Cảm Hứng Lịch Sử Về Cái “Điêu Tàn” Và Tư Duy Siêu Hình


Tiểu kết chương 1:

Chế Lan Viên đã sống cuôc


đời của môt


nghê ̣si ̃́n , môt


nghê ̣si ̃ gắn

liền với những chuyển biế n của thời đaị và số phân

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.

dân tôc

. Ông dường như

Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 9

vắt kiêṭ đời mình để chinh phuc

những đỉnh cao sáng tao

. Trong quá trình vân

đôn

g và biến đổi qua các chăṇ g đường thơ , ở mỗi giai đoạn , ông đều để lai

dấu ấn của tư duy t hơ đôc

đáo và đăc

sắc . Trong thơ Chế Lan Viên tư duy lý

luân

lấn át tư duy hình tươn

g, ngôn ngữ thuyết giảng, diên

ngôn, lâp

luâṇ .

Sự phứ c tap trong tư duy thơ Chế Lan Viên mà nhiêù người đề câp

chứ ng tỏ ông là môt nhà thơ l ớn, chưa bao giờ tự bằng lòng , thỏa mãn với

những gì đã có , trái lại luôn tìm tòi , thể nghiêm. Tư duy nghê ̣thuâṭ của ông ,

về nhiều phương diêṇ , rất có ý nghia

́i lý luân

thơ ca và thưc

tiên

sáng tác.

Nghiên cứ u tư duy thơ Chế Lan Viên không chỉ tìm hiểu năng lưc sáng

tác hay tâm lý học sáng tác , mà còn bao hàm cả việc tìm hiểu những định

hướng đã làm thay đổi quan niêm sử .

nghê ̣thuâṭ của nhà thơ ở ̀ ng giai đoan

lic̣ h

Tư duy thơ đa daṇ g, phong phú và nhiều chiều đã thể hiên rõ trí tuê ̣sắc

sảo, đôc

đáo , tạo ra vẻ đẹp riêng của thơ Chế Lan Viên . Có thể nói những

sáng tạo nghệ thuật đặc sắc đều bắt nguồn từ tư duy ấy . Tư duy thơ Chế Lan

Viên có sự biến đổi , vân

đôn

g qua các giai đoan

khác nhau . Điều đăc

biêṭ thơ

chính luận là một thành công đỉnh cao trong sáng tác của Chế Lan Viên , đươc

coi như là môt

yếu tố cốt lõi tao

nên phong cách thơ Chế Lan Viên.


CHƯƠNG 2

CẢM HỨNG DÂN TỘC THỜI ĐẠI VÀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ CHÍNH LUÂN

CHẾ LAN VIÊN

2.1. Cảm hứng lịch sử và thời đại

2.1.1. Cảm hứng lịch sử về cái “Điêu tàn” và tư duy siêu hình

Thơ ca giai đoan

n ày như một vũ khí sắc bén. Trong cuôc

chiến đấu vô

cùng đau thương và anh dũng của dân tộ c ta cũng đã sản sinh ra một nền thơ

́n xứ ng đáng với tầm vóc dân tôc

và thời đai

. Thơ ca kháng chiến cứ u nước

đã thể hiê n

sâu sắc tư tưởng yêu nước,yêu chủ nghia

xã hôi

. Đó là môt

nền

thơ xã hôi

chủ nghia

, môt

nền thơ đã trưởng thà nh sau hai mươi năm dân chu

côn

g hòa”[40,67]. Chỉ trong một thời gian ngắn , văn hoc

đã có hàng loaṭ tác

phẩm về đề tài này , càng về sau đề tài chống Mỹ càng trở thành đề tài chính

của văn học . Tổ quốc và chủ nghia anh hùng cách maṇ g đã là những chủ đề

bao quát, kéo theo các chủ đề khác châu tuần quanh nó , làm nên những mảng màu hiện thực chiến đấu to lớn. Với những chủ đề ấy, các tác phẩm chống Mĩ

đã xuyên sâu vào bản chất vấn đề và đáp ứ ng đươc của giai đoạn lúc bấy giờ.

những yêu cầu cấp bách

Tổ quốc bao giờ cũng rất đỗi thiêng liêng và sâu xa tr ong tâm tưởng mỗi con người. Tổ quốc cũng là Me,̣ là Đất nước:

“...Khi ta lớ n lên Đất nướ c đã có rồi.

Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể. Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn.

Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đá nh giăc

(Trích “Mặt đường khát vọng”-Nguyêñ

”.

Khoa Điềm).

Đúng là không nơi đâu trên thế giới này như đất nước này , kể từ khi

dưn

g nước đến k hi giành laị đươc

đôc

lâp

, thống nhất hoà n toàn , thu giang


sơn về môt mối , phải trải qua hàng nghìn năm liên tục chống ngoại xâm . Giá

như chúng ta minh hoa

lịch sử dân tộc , thì có trang nào , dòng nào mà không

phải vẽ thanh gươm tự vệ và tô đậm một màu máu?

Nếu tiếng súng chống Mĩ đã thôi thúc các thế hê ̣nhà văn , nhà thơ cùng

lên đường thì đồng thời cũng làm nảy sinh môt lớp người cầm bút trẻ . Điêù

đó có ý nghia

quy luât

, vừ a có ý nghia

thưc

tiên

. Quy luâṭ là ở chỗ , cứ mỗi

giai đoan

laị có thêm môt

l ớp người sáng tác văn học . Song quy luâṭ không

phải chỉ tiến triển theo trình tự thời gian và hoàn cảnh , giữa hoàn cảnh và

sống. Từ những quan hê ̣ấy sẽ quyết điṇ h chất lương cho phong trào . Ý nghĩa

thưc

tiên

ở đây là những người cầm bút trẻ đã biết tích lũy sự sống qua hoàn

cảnh chống Mĩ của dân tộc, và trên cơ sở đó đến với văn học.

Khi giăc

Mỹ ̀ ng bước leo thang gây chiến tr anh phá hoaị trên miền

Bắc, thì văn học của ta cũng từng bước “leo thang” đánh trả đế quốc Mỹ bằng

thơ văn, nghê ̣thuâṭ . Khi tiếng súng giăc

Mỹ bắt đầu cũng là lúc văn hoc

phát

triển nở rô .

Do tình hình khẩn trương laị phải sáng tác nhanh để phuc

vụ kịp

thời, nên môt

số tác phẩm phải sáng tác nhanh để phuc

vu ̣kip

thời , nên môt

số tác phẩm thường sơ sài về nhân vâṭ , lỏng lẻo về kết cấu , nhất là chưa khai thác được chiều sâu về bản chất của hiện thực chống Mỹ, do đó cũng yếu kém

về măṭ khái quát . Những giai đoan sau này , các tác phẩm đã đi vào bề thế ,

quy mô lớn, với dung lươn

g phong phú và chất lươn

g nghê ̣thuâṭ đã nâng cao .

Chủ nghĩa anh hùng trong văn học từ cái bề rộng và chiều sâu đó mà có đươc

những chân dung người anh hùng đep

đẽ , bên caṇ h tâp

thể anh hùng vi ̃ đai .

Không phải hy sinh sương máu mới là hy sinh cao quý nhất , nhưng chỉ co

trong chiến đấu mới bôc lô ̣đày đủ các đứ c tính của n gười anh hùng cùng lý

tươngr cao đep

của ho ̣ . Hơn nữa , do yêu cầu bứ c thiết của văn hoc

khi ca

nước cùng chiến đấu quyết liêṭ , chiến đấu trong hoàn cảnh miền Bắc đâu đâu


cũng là hậu phương, và cả miền Bắc là hậu phương lớn của tiền tuyến lớn anh hùng.

Hiên

thưc

cuôc

kháng chiến ấy đã là nguồn cảm hứ ng vô tân

của thơ ca

.Nhiêm

vu ̣của thơ ca là phải đón nhân

và phản ánh thâṭ đầy đủ, thâṭ sinh đông

hiên

thưc

ấy. Cuôc

sống chiến đấu quyế t liêṭ của dân tôc

đã cung cấp cho các

nhà thơ không chỉ một hình ảnh trong mắt, môt

rung đôn

g trong tim , mà còn

cả một tia lửa trong trí . Môt

hiên

thưc

́n, môt

ước mơ lớn . Đó là nguồn cảm

́ ng vô tân cho các nhà thơ . Trước kia nêú Chế Lan Viên đã vô cùng vui

sướng thì khi đã tìm đươc

môt

“cá nh đồng vui” , từ “chân trờ i của môt

ngườ i” nhà thơ hăm hở lao vào cuôc

sống , chiến đấu, xây dưn

g sôi nổi khẩn

trương, anh hùng của dân tôc

. Cuôc

chiế n đấu đã cho nhà thơ cái nhìn chín

chắn, sâu sắc. Thơ Chế Lan Viên đánh dấu môt tư tưởng và hình thứ c nghê ̣thuâṭ.

bước phát triển cả về nôi

dung

Bằng môt

́ c maṇ h kỳ diêu

và nhữn g đăc

trưng cơ bản của mình , thơ

chính luận đã xông thẳng vào các sự kiện, các vấn đề của hiện thực nóng bỏng

để rọi vào đ ấy ánh sáng của trí tuê,

̀ đó tìm lấy môt

câu trả ̀i , hướng đến

môt

cách hiểu , môt

cách cảm cho người đoc

, chỉ ra một phương hướn g hành

đôn

g và vac̣ h môt

con đường đi tới tương laị. Và Cách Mạng đã giúp Chế Lan

Viên lao vào cuôc mới mẻ.

sống chung của dân tôc

, tìm đến những chân trời bao la ,

Thời đaị mới, đòi hỏi thơ phải đáp ứng những yêu cầu mới. Trong cuôc̣ chiến đấu quyết liêṭ với kẻ thù hung baọ , giành độc lập tự do, hàng loạt vấn đề

đăṭ ra trước mắt dân tôc ta : Sứ c maṇ h chúng ta là ở đâu ? ý nghĩa cuộc chiến

đấu giải phóng mà ta tiến hành ? làm thế nào để c hiến thắng kẻ thù ? bản chất kẻ thù? Đâu là chân lý của thời đaị ? Tất cả những câu hỏi lớn đòi hỏi thơ phải

tham gia và trưc tiêṕ trả̀i.


Thơ không bằng lòng với viêc nói tiêń g nói của trái tim nữa , cần phải

trưc

tiếp góp phần nhân

thứ c và khám phá những vấn đề đó bằng tư duy nghê

thuâṭ của thơ. Nhiều bài thơ chính luân xuất sắc đã ra đời trong hoàn cảnh ấy.

Đã qua rồi cái thời mà thơ chỉ dùng vào muc đích duy nhất là ngâm

vịnh. Cũng qua rồi cái quan niệm thơ chỉ dùng để ca ngợi “mây, gió, trăng,

hoa, tuyết, núi, sông” hay thể hiên

cái tôi bé nhỏ , lẩn tránh thưc

taị vào trong

những tháp ngà cô đơn , hư ảo . Thời đaị mới đã ̉ ra buổi bình minh cho

nhân loaị . Trong cơn lốc xoáy của cách maṇ g , hơn bất cứ môt loaị hình nghê

thuâṭ nào khác thơ đã trưc

tiếp tham gia , trưc

tiếp lên tiếng để biểu thi ̣môt

thái độ, môt

cách nhìn, môt

cách suy nghi ̃ và hành đông.

Theo môt quy luâṭ tất yêú , ở đâu có áp bức thì ở đó có đấu tranh, mà ở

đâu có đấu tranh thì ở đấy có thơ lên tiếng . Chính trong bão táp cách mạng

con chim thơ đã đươc

tôi luyên

ngày thêm cường maṇ h , đã sải cánh bay

những đường bay v ạn dặm để theo kịp với bước tiến khổng lồ của thời đại

́i. Thơ đã thưc

sự là con chim báo bao

của tương lai . Chính giữa trung tâm

cơn xoáy cách maṇ g, con chim thơ đã cất cao tiếng hót , âm vang và ̀ ng hưc

̉ a. Cuôc kháng chiêń chống Mỹ vi ̃ đaị , mà dân tộc ta thay mặt nhân loại tiến

hành không chỉ là một cuộc chiến chống ngoại xâm như trăm nghìn cuộc kháng chiến chống ngoại xâm k hác. Và chính trong cuộc kháng chiến vĩ đại

này đã sản sinh ra môt

nền thơ lớn, mà tính chiến đấu là nét nổi bật, bao trùm,

́ ng đáng với tầm vóc nhân loaị và thế kỷ. Trong những thời điểm quyết điṇ h

của lịch sử và vận mệnh dân tộc , trong cuôc

chiến đấu sống còn giữa dân tôc

và kẻ thù, thơ ca chân chính bao giờ cũng khao khát đươc

tham gia chiến đấu

trưc

tiếp, biến mình thành ngon

̀ kêu goi

và thứ c tỉnh.

Thơ ca cũng không nằm ngoài quy luâṭ ấy . Trong cuôc

chiến đấu vô

cùng đau thương và anh dũng của dân tộc ta chống lại đế quốc Mỹ – kẻ thù

hung bao

nhất của lic̣ h sử loài người cũng đã sản sinh ra môt

nền thơ lớn


́ ng đáng với tầm vóc dân tôc

và thời đai

. Tất cả hiên

thưc

đời sống ấy la

nguồn cảm hứ ng vô tâ ̣n của thơ ca . Nhiêm vu ̣của thơ ca là phải đón nhân va

phản ánh thật đầy đủ , thâṭ sinh đôn

g hiên

thưc

ấy . Đó là môt

yêu cầu tất yếu

của thời đại đối với thơ ca. Trong cuôc

chiến đấu vô cùng quyết liêṭ và cưc ky

gian khổ này chúng ta đã có dip

nhìn tân

măṭ kẻ thù , và hơn thế chúng ta còn

nhìn sâu vào tận tim đen của chúng . Thơ đã góp phần vac̣ h trần tôi ác va

phanh phui bản chất của đế quốc Mỹ . Đó là nhiêm chính là cảm hứng thời đại cho thơ ca.

cu ̣của thơ ca và đó cũn g

Trước đây thơ quen với giai

bày , tâm sự thì giờ đây trước hiên

thuc dư

dôi

có ý nghia

sống còn với dân tôc

và thời đai

, đòi hỏi thơ phải trưc

tiếp

tham gia vào trân đánh với tất cả sức mạnh của mình . Tiêń g thơ phải vút lên

̀ những cung đường còn nham nhở hố bom , từ những chiếc cầu nơi trong

điểm, từ những mái trường , những công trường đến những cánh đồng mênh

mông bao la. Trong cuôc

chiến đấu quyết liệt này , thơ phải đóng góp phần

tích cực của mình vào sự nghiệp giải phóng con người . Thơ phải cùng người

đánh giăc̣ , cùng người chia sẻ niềm vui. Thơ không chiến đấu sao đươc

khi ca

dân tôc

đang ở vào thời điểm nóng bỏng nhất của lịch sử . Do vây

thơ phải

phân tích, lý giải, thứ c tỉnh, phải kêu gọi ...Viêc tăng cường tính chính luân

trong thơ là môt cách mạng.

tất yếu của thời đaị mới và bản chất chiến đấu của thơ ca

Tuy là môt

ngườ i xuất hiên

muôn

trong phong trào Thơ mới 1932-1945,

nhưng thơ Chế Lan Viên laị mang hào quang la ̣ “giữa đồng bằng văn hoc

Viêt

Nam thế kỷ XX , nó đứng sừng sững như một tháp Chàm , chắc chắn và lẻ loi , bí mật” [39,199] ,“lẻ loi giữa không khí chung của Thơ mớ i, “bí mâṭ ” vì nó là

môt

thế giới đầy bóng tối , siêu hình , có lúc làm rợn ngợp và hoang mang

người đoc̣ .


Điêu tà n” là môt

tâp

thơ xuất hiên

trong môt

xã hôi

thưc

dân phong kiến

đã đi đến hồi bế tắc. Lúc này phong trào Thơ mới ra đời và cất lên tiếng nói bi đát, lãng mạn của một thế hệ như là một xu thế không cưỡng lại được.

“Niềm kinh di” chính là xuất phát điểm cho một quan niệm thơ . Trong

̀i tưa cho t ập thơ “Điêu tà n”do chính Chế Lan Viên viêt́ có thể coi là tuyên

ngôn và cương linh nghê ̣thuâṭ của ông . Chế Lan Viên viêt́ : “Hà n Măc Tư

nói: Làm thơ tức là điên . Tôi thêm: Làm thơ là sự phi thường . Thi sĩ không phải là Người. Nó là Người Mơ, Ngườ i say, Ngườ i điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát ly hiện tại . Nó xáo trộn dĩ vãng . Nó ôm trùm

Tương lai , Ngườ i ta không hiểu đươc

nó vì nó nói những cá i vô nghia

, tuy

rằng những cá i vô nghia

hơp

lý [51,13].

Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Hoàng Diệp là những tác giả của

Trườ ng thơ loaṇ

những quan niêm

. Các thi sĩ của trường thơ này chịu ảnh hưởng trực tiếp thẩm mỹ của Edgar Poe ... Hàn Mặc Tử có “Chơi giữa mù a

trăng”, Bích Khê có “ Sọ người” ,“Xá c thiṭ” ,“Ăn mà y ”....Hoàng Diệp có

Ngườ i say” , “Phú t truy

lac

”...còn Chế Lan Viên thể hiện trong Điêu tà n .

Trong thơ Chế Lan Viên “ niềm kinh di ̣” laị mang giá tri ̣ở chiều sâu thẳm trong tư tưởng bi thiết của Chế Lan Viên , nói lên nỗi đau của người dân nô lệ,

môt

khát von

g thoát khỏi vòng u hân

. Thơ Chế Lan Viên mang tính siêu hình ,

ở đó ông biểu lộ một sự trăn trở , suy tư, khát khao hiểu biết , muốn khám pha ra những điều kỳ la,̣ mới mẻ.

Có thể nói, quan điểm siêu hình cho rằng xem xét sự vâṭ là hoàn toàn cô

lâp̣ , tách biệt với các sự vật khác, hoàn toàn tĩnh tại , ngưng đong , cố điṇ h ,

không vân

đôn

g , không biến đổ i, đi tìm nguồn gốc của sự phát triển ở bên

ngoài sự vật chứ không phải ở chính sự vật, ở các mặt đối lập của sự vật đó.

Cảm hứng lịch sử về cái “Điêu tà n” đươc

bôc

lô ̣trong môt

tư duy siêu

hình. Tư duy mang tính siêu hình trong thơ Chế Lan Viên thời “Điêu tà n” đa


dạng và phức tạp , đôi khi mâu thuân

nhau , nhưng tưu

chung vân

là tư duy

siêu hình. Khác với quan niệm của các nhà Thơ mới đương thời khi họ tìm cái

đep

thuần túy mang màu sắc hiê ̣ n đaị , Chế Lan Viên đi sâu tìm vào quá khư

Chiêm Thành với những điêu tàn , đổ nát, rùng rợn. Đứng ở hiện tại Chế Lan

Viên laị dưn

g lên môt

khoảng thời gian trong quá khứ để dường như ông

muốn nối liền sự sống và cái chế t bằng cách ghi laị từ ng sự vâṭ và chứ ng tích

u trầm, tưởng tương những dấu vêt́ hủy hoaị của tháng năm . Dấu vêt́ ấy nói

́i con người hiên

taị rằng cả nước non Chàm sup

đổ kia vân

đang tồn tai

trong dòng suy tưởng của môt thi si ̃ thần đồng:

“Đây những thá p gầy mòn vì mong đơị Những đền xưa đổ ná t dướ i thờ i gian Những sông vắng lê mình trong bóng tối

Những tươn

g Chà m lở lói rỉ rêu than”


( Trên đường về)

Ta thấy môt

Chế Lan Viên luôn hướng về qua khứ than khóc , rên rỉ nỗi

sầu vong quốc của dân Chiêm Thành nhưng cũng có môt Chế Lan Viên đã ca

ngơi

cái huy hoàng của nước non Chiêm , vẻ huy hoàng của điện đài cung

điêṇ , của vua quan Chiêm bên cạnh những thướt tha bay lươn của người

Chiêm nữ yêu kiều “Bóng Chiêm nương dần khuất dướ i sương sa”:

“Đây trong á nh ngoc lưu ly mờ ảo

Vua quan Chiêm say đắm thiṭ da ngà

Những Chiêm nữ mơ mà ng trong tiếng sá o Cùng nhịp nhàng uyển chuyển uốn mình hoa”

( Trên đường về)

Chế Lan Viên quay về quá van

g để nói nỗi bi phân

của hiên

taị bằng hình

ảnh lạ là sự “quá i đản”. Dĩ vãng dân tộc Chàm hay dân tộc Việt cũng đều rực

̃, hào hứng với bao chiến công huyền thoại . Là một t hi si ̃ nhay cảm , Chế

Xem tất cả 131 trang.

Ngày đăng: 19/02/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí