Tiểu kết chương 1:
Chế Lan Viên đã sống cuôc
đời của môt
nghê ̣si ̃ lớn , môt
nghê ̣si ̃ gắn
liền với những chuyển biế n của thời đaị và số phân
Có thể bạn quan tâm!
- Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 6
- Chính Luận Như Yếu Tố Cốt Lõi Tạo Nên Phong Cách Chế Lan
- Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 8
- Cảm Hứng Dân Tộc Thời Đại Và Tư Duy Biện Chứng Lịch Sử
- Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 11
- Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 12
Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.
dân tôc
. Ông dường như
vắt kiêṭ đời mình để chinh phuc
những đỉnh cao sáng tao
. Trong quá trình vân
đôn
g và biến đổi qua các chăṇ g đường thơ , ở mỗi giai đoạn , ông đều để lai
dấu ấn của tư duy t hơ đôc
đáo và đăc
sắc . Trong thơ Chế Lan Viên tư duy lý
luân
lấn át tư duy hình tươn
g, ngôn ngữ thuyết giảng, diên
ngôn, lâp
luâṇ .
Sự phứ c tap trong tư duy thơ Chế Lan Viên mà nhiêù người đề câp
chứ ng tỏ ông là môt nhà thơ l ớn, chưa bao giờ tự bằng lòng , thỏa mãn với
những gì đã có , trái lại luôn tìm tòi , thể nghiêm. Tư duy nghê ̣thuâṭ của ông ,
về nhiều phương diêṇ , rất có ý nghia
với lý luân
thơ ca và thưc
tiên
sáng tác.
Nghiên cứ u tư duy thơ Chế Lan Viên không chỉ tìm hiểu năng lưc sáng
tác hay tâm lý học sáng tác , mà còn bao hàm cả việc tìm hiểu những định
hướng đã làm thay đổi quan niêm sử .
nghê ̣thuâṭ của nhà thơ ở từ ng giai đoan
lic̣ h
Tư duy thơ đa daṇ g, phong phú và nhiều chiều đã thể hiên rõ trí tuê ̣sắc
sảo, đôc
đáo , tạo ra vẻ đẹp riêng của thơ Chế Lan Viên . Có thể nói những
sáng tạo nghệ thuật đặc sắc đều bắt nguồn từ tư duy ấy . Tư duy thơ Chế Lan
Viên có sự biến đổi , vân
đôn
g qua các giai đoan
khác nhau . Điều đăc
biêṭ thơ
chính luận là một thành công đỉnh cao trong sáng tác của Chế Lan Viên , đươc
coi như là môt
yếu tố cốt lõi tao
nên phong cách thơ Chế Lan Viên.
CHƯƠNG 2
CẢM HỨNG DÂN TỘC THỜI ĐẠI VÀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ CHÍNH LUÂN
CHẾ LAN VIÊN
2.1. Cảm hứng lịch sử và thời đại
2.1.1. Cảm hứng lịch sử về cái “Điêu tàn” và tư duy siêu hình
Thơ ca giai đoan
n ày như một vũ khí sắc bén. Trong cuôc
chiến đấu vô
cùng đau thương và anh dũng của dân tộ c ta cũng đã sản sinh ra một nền thơ
lớn xứ ng đáng với tầm vóc dân tôc
và thời đai
. Thơ ca kháng chiến cứ u nước
đã thể hiê n
sâu sắc tư tưởng yêu nước,yêu chủ nghia
xã hôi
. Đó là “ môt
nền
thơ xã hôi
chủ nghia
, môt
nền thơ đã trưởng thà nh sau hai mươi năm dân chu
côn
g hòa”[40,67]. Chỉ trong một thời gian ngắn , văn hoc
đã có hàng loaṭ tác
phẩm về đề tài này , càng về sau đề tài chống Mỹ càng trở thành đề tài chính
của văn học . Tổ quốc và chủ nghia anh hùng cách maṇ g đã là những chủ đề
bao quát, kéo theo các chủ đề khác châu tuần quanh nó , làm nên những mảng màu hiện thực chiến đấu to lớn. Với những chủ đề ấy, các tác phẩm chống Mĩ
đã xuyên sâu vào bản chất vấn đề và đáp ứ ng đươc của giai đoạn lúc bấy giờ.
những yêu cầu cấp bách
Tổ quốc bao giờ cũng rất đỗi thiêng liêng và sâu xa tr ong tâm tưởng mỗi con người. Tổ quốc cũng là Me,̣ là Đất nước:
“...Khi ta lớ n lên Đất nướ c đã có rồi.
Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể. Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn.
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đá nh giăc
(Trích “Mặt đường khát vọng”-Nguyêñ
”.
Khoa Điềm).
Đúng là không nơi đâu trên thế giới này như đất nước này , kể từ khi
dưn
g nước đến k hi giành laị đươc
đôc
lâp
, thống nhất hoà n toàn , thu giang
sơn về môt mối , phải trải qua hàng nghìn năm liên tục chống ngoại xâm . Giá
như chúng ta minh hoa
lịch sử dân tộc , thì có trang nào , dòng nào mà không
phải vẽ thanh gươm tự vệ và tô đậm một màu máu?
Nếu tiếng súng chống Mĩ đã thôi thúc các thế hê ̣nhà văn , nhà thơ cùng
lên đường thì đồng thời cũng làm nảy sinh môt lớp người cầm bút trẻ . Điêù
đó có ý nghia
quy luât
, vừ a có ý nghia
thưc
tiên
. Quy luâṭ là ở chỗ , cứ mỗi
giai đoan
laị có thêm môt
l ớp người sáng tác văn học . Song quy luâṭ không
phải chỉ tiến triển theo trình tự thời gian và hoàn cảnh , giữa hoàn cảnh và sư
sống. Từ những quan hê ̣ấy sẽ quyết điṇ h chất lương cho phong trào . Ý nghĩa
thưc
tiên
ở đây là những người cầm bút trẻ đã biết tích lũy sự sống qua hoàn
cảnh chống Mĩ của dân tộc, và trên cơ sở đó đến với văn học.
Khi giăc
Mỹ từ ng bước leo thang gây chiến tr anh phá hoaị trên miền
Bắc, thì văn học của ta cũng từng bước “leo thang” đánh trả đế quốc Mỹ bằng
thơ văn, nghê ̣thuâṭ . Khi tiếng súng giăc
Mỹ bắt đầu cũng là lúc văn hoc
phát
triển nở rô .
Do tình hình khẩn trương laị phải sáng tác nhanh để phuc
vụ kịp
thời, nên môt
số tác phẩm phải sáng tác nhanh để phuc
vu ̣kip
thời , nên môt
số tác phẩm thường sơ sài về nhân vâṭ , lỏng lẻo về kết cấu , nhất là chưa khai thác được chiều sâu về bản chất của hiện thực chống Mỹ, do đó cũng yếu kém
về măṭ khái quát . Những giai đoan sau này , các tác phẩm đã đi vào bề thế ,
quy mô lớn, với dung lươn
g phong phú và chất lươn
g nghê ̣thuâṭ đã nâng cao .
Chủ nghĩa anh hùng trong văn học từ cái bề rộng và chiều sâu đó mà có đươc
những chân dung người anh hùng đep
đẽ , bên caṇ h tâp
thể anh hùng vi ̃ đai .
Không phải hy sinh sương máu mới là hy sinh cao quý nhất , nhưng chỉ co
trong chiến đấu mới bôc lô ̣đày đủ các đứ c tính của n gười anh hùng cùng lý
tươngr cao đep
của ho ̣ . Hơn nữa , do yêu cầu bứ c thiết của văn hoc
khi ca
nước cùng chiến đấu quyết liêṭ , chiến đấu trong hoàn cảnh miền Bắc đâu đâu
cũng là hậu phương, và cả miền Bắc là hậu phương lớn của tiền tuyến lớn anh hùng.
Hiên
thưc
cuôc
kháng chiến ấy đã là nguồn cảm hứ ng vô tân
của thơ ca
.Nhiêm
vu ̣của thơ ca là phải đón nhân
và phản ánh thâṭ đầy đủ, thâṭ sinh đông
hiên
thưc
ấy. Cuôc
sống chiến đấu quyế t liêṭ của dân tôc
đã cung cấp cho các
nhà thơ không chỉ một hình ảnh trong mắt, môt
rung đôn
g trong tim , mà còn
cả một tia lửa trong trí . Môt
hiên
thưc
lớn, môt
ước mơ lớn . Đó là nguồn cảm
hứ ng vô tân cho các nhà thơ . Trước kia nêú Chế Lan Viên đã vô cùng vui
sướng thì khi đã tìm đươc
môt
“cá nh đồng vui” , từ “chân trờ i của môt
ngườ i” nhà thơ hăm hở lao vào cuôc
sống , chiến đấu, xây dưn
g sôi nổi khẩn
trương, anh hùng của dân tôc
. Cuôc
chiế n đấu đã cho nhà thơ cái nhìn chín
chắn, sâu sắc. Thơ Chế Lan Viên đánh dấu môt tư tưởng và hình thứ c nghê ̣thuâṭ.
bước phát triển cả về nôi
dung
Bằng môt
sứ c maṇ h kỳ diêu
và nhữn g đăc
trưng cơ bản của mình , thơ
chính luận đã xông thẳng vào các sự kiện, các vấn đề của hiện thực nóng bỏng
để rọi vào đ ấy ánh sáng của trí tuê,
từ đó tìm lấy môt
câu trả lời , hướng đến
môt
cách hiểu , môt
cách cảm cho người đoc
, chỉ ra một phương hướn g hành
đôn
g và vac̣ h môt
con đường đi tới tương laị. Và Cách Mạng đã giúp Chế Lan
Viên lao vào cuôc mới mẻ.
sống chung của dân tôc
, tìm đến những chân trời bao la ,
Thời đaị mới, đòi hỏi thơ phải đáp ứng những yêu cầu mới. Trong cuôc̣ chiến đấu quyết liêṭ với kẻ thù hung baọ , giành độc lập tự do, hàng loạt vấn đề
đăṭ ra trước mắt dân tôc ta : Sứ c maṇ h chúng ta là ở đâu ? ý nghĩa cuộc chiến
đấu giải phóng mà ta tiến hành ? làm thế nào để c hiến thắng kẻ thù ? bản chất kẻ thù? Đâu là chân lý của thời đaị ? Tất cả những câu hỏi lớn đòi hỏi thơ phải
tham gia và trưc tiêṕ trả lời.
Thơ không bằng lòng với viêc nói tiêń g nói của trái tim nữa , cần phải
trưc
tiếp góp phần nhân
thứ c và khám phá những vấn đề đó bằng tư duy nghê
thuâṭ của thơ. Nhiều bài thơ chính luân xuất sắc đã ra đời trong hoàn cảnh ấy.
Đã qua rồi cái thời mà thơ chỉ dùng vào muc đích duy nhất là ngâm
vịnh. Cũng qua rồi cái quan niệm thơ chỉ dùng để ca ngợi “mây, gió, trăng,
hoa, tuyết, núi, sông” hay thể hiên
cái tôi bé nhỏ , lẩn tránh thưc
taị vào trong
những tháp ngà cô đơn , hư ảo . Thời đaị mới đã mở ra buổi bình minh cho
nhân loaị . Trong cơn lốc xoáy của cách maṇ g , hơn bất cứ môt loaị hình nghê
thuâṭ nào khác thơ đã trưc
tiếp tham gia , trưc
tiếp lên tiếng để biểu thi ̣môt
thái độ, môt
cách nhìn, môt
cách suy nghi ̃ và hành đông.
Theo môt quy luâṭ tất yêú , ở đâu có áp bức thì ở đó có đấu tranh, mà ở
đâu có đấu tranh thì ở đấy có thơ lên tiếng . Chính trong bão táp cách mạng
con chim thơ đã đươc
tôi luyên
ngày thêm cường maṇ h , đã sải cánh bay
những đường bay v ạn dặm để theo kịp với bước tiến khổng lồ của thời đại
mới. Thơ đã thưc
sự là con chim báo bao
của tương lai . Chính giữa trung tâm
cơn xoáy cách maṇ g, con chim thơ đã cất cao tiếng hót , âm vang và hừ ng hưc
lử a. Cuôc kháng chiêń chống Mỹ vi ̃ đaị , mà dân tộc ta thay mặt nhân loại tiến
hành không chỉ là một cuộc chiến chống ngoại xâm như trăm nghìn cuộc kháng chiến chống ngoại xâm k hác. Và chính trong cuộc kháng chiến vĩ đại
này đã sản sinh ra môt
nền thơ lớn, mà tính chiến đấu là nét nổi bật, bao trùm,
xứ ng đáng với tầm vóc nhân loaị và thế kỷ. Trong những thời điểm quyết điṇ h
của lịch sử và vận mệnh dân tộc , trong cuôc
chiến đấu sống còn giữa dân tôc
và kẻ thù, thơ ca chân chính bao giờ cũng khao khát đươc
tham gia chiến đấu
trưc
tiếp, biến mình thành ngon
cờ kêu goi
và thứ c tỉnh.
Thơ ca cũng không nằm ngoài quy luâṭ ấy . Trong cuôc
chiến đấu vô
cùng đau thương và anh dũng của dân tộc ta chống lại đế quốc Mỹ – kẻ thù
hung bao
nhất của lic̣ h sử loài người cũng đã sản sinh ra môt
nền thơ lớn
xứ ng đáng với tầm vóc dân tôc
và thời đai
. Tất cả hiên
thưc
đời sống ấy la
nguồn cảm hứ ng vô tâ ̣n của thơ ca . Nhiêm vu ̣của thơ ca là phải đón nhân va
phản ánh thật đầy đủ , thâṭ sinh đôn
g hiên
thưc
ấy . Đó là môt
yêu cầu tất yếu
của thời đại đối với thơ ca. Trong cuôc
chiến đấu vô cùng quyết liêṭ và cưc ky
gian khổ này chúng ta đã có dip
nhìn tân
măṭ kẻ thù , và hơn thế chúng ta còn
nhìn sâu vào tận tim đen của chúng . Thơ đã góp phần vac̣ h trần tôi ác va
phanh phui bản chất của đế quốc Mỹ . Đó là nhiêm chính là cảm hứng thời đại cho thơ ca.
cu ̣của thơ ca và đó cũn g
Trước đây thơ quen với giai
bày , tâm sự thì giờ đây trước hiên
thuc dư
dôi
có ý nghia
sống còn với dân tôc
và thời đai
, đòi hỏi thơ phải trưc
tiếp
tham gia vào trân đánh với tất cả sức mạnh của mình . Tiêń g thơ phải vút lên
từ những cung đường còn nham nhở hố bom , từ những chiếc cầu nơi trong
điểm, từ những mái trường , những công trường đến những cánh đồng mênh
mông bao la. Trong cuôc
chiến đấu quyết liệt này , thơ phải đóng góp phần
tích cực của mình vào sự nghiệp giải phóng con người . Thơ phải cùng người
đánh giăc̣ , cùng người chia sẻ niềm vui. Thơ không chiến đấu sao đươc
khi ca
dân tôc
đang ở vào thời điểm nóng bỏng nhất của lịch sử . Do vây
thơ phải
phân tích, lý giải, thứ c tỉnh, phải kêu gọi ...Viêc tăng cường tính chính luân
trong thơ là môt cách mạng.
tất yếu của thời đaị mới và bản chất chiến đấu của thơ ca
Tuy là môt
ngườ i xuất hiên
muôn
trong phong trào Thơ mới 1932-1945,
nhưng thơ Chế Lan Viên laị mang hào quang la ̣ “giữa đồng bằng văn hoc
Viêt
Nam thế kỷ XX , nó đứng sừng sững như một tháp Chàm , chắc chắn và lẻ loi , bí mật” [39,199] ,“lẻ loi giữa không khí chung của Thơ mớ i, “bí mâṭ ” vì nó là
môt
thế giới đầy bóng tối , siêu hình , có lúc làm rợn ngợp và hoang mang
người đoc̣ .
“Điêu tà n” là môt
tâp
thơ xuất hiên
trong môt
xã hôi
thưc
dân phong kiến
đã đi đến hồi bế tắc. Lúc này phong trào Thơ mới ra đời và cất lên tiếng nói bi đát, lãng mạn của một thế hệ như là một xu thế không cưỡng lại được.
“Niềm kinh di” chính là xuất phát điểm cho một quan niệm thơ . Trong
lời tưa cho t ập thơ “Điêu tà n”do chính Chế Lan Viên viêt́ có thể coi là tuyên
ngôn và cương linh nghê ̣thuâṭ của ông . Chế Lan Viên viêt́ : “Hà n Măc Tư
nói: Làm thơ tức là điên . Tôi thêm: Làm thơ là sự phi thường . Thi sĩ không phải là Người. Nó là Người Mơ, Ngườ i say, Ngườ i điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tinh, là Yêu. Nó thoát ly hiện tại . Nó xáo trộn dĩ vãng . Nó ôm trùm
Tương lai , Ngườ i ta không hiểu đươc
nó vì nó nói những cá i vô nghia
, tuy
rằng những cá i vô nghia
hơp
lý ” [51,13].
Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Bích Khê, Hoàng Diệp là những tác giả của
Trườ ng thơ loaṇ
những quan niêm
. Các thi sĩ của trường thơ này chịu ảnh hưởng trực tiếp thẩm mỹ của Edgar Poe ... Hàn Mặc Tử có “Chơi giữa mù a
trăng”, Bích Khê có “ Sọ người” ,“Xá c thiṭ” ,“Ăn mà y ”....Hoàng Diệp có
“Ngườ i say” , “Phú t truy
lac
”...còn Chế Lan Viên thể hiện trong Điêu tà n .
Trong thơ Chế Lan Viên “ niềm kinh di ̣” laị mang giá tri ̣ở chiều sâu thẳm trong tư tưởng bi thiết của Chế Lan Viên , nói lên nỗi đau của người dân nô lệ,
môt
khát von
g thoát khỏi vòng u hân
. Thơ Chế Lan Viên mang tính siêu hình ,
ở đó ông biểu lộ một sự trăn trở , suy tư, khát khao hiểu biết , muốn khám pha ra những điều kỳ la,̣ mới mẻ.
Có thể nói, quan điểm siêu hình cho rằng xem xét sự vâṭ là hoàn toàn cô
lâp̣ , tách biệt với các sự vật khác, hoàn toàn tĩnh tại , ngưng đong , cố điṇ h ,
không vân
đôn
g , không biến đổ i, đi tìm nguồn gốc của sự phát triển ở bên
ngoài sự vật chứ không phải ở chính sự vật, ở các mặt đối lập của sự vật đó.
Cảm hứng lịch sử về cái “Điêu tà n” đươc
bôc
lô ̣trong môt
tư duy siêu
hình. Tư duy mang tính siêu hình trong thơ Chế Lan Viên thời “Điêu tà n” đa
dạng và phức tạp , đôi khi mâu thuân
nhau , nhưng tưu
chung vân
là tư duy
siêu hình. Khác với quan niệm của các nhà Thơ mới đương thời khi họ tìm cái
đep
thuần túy mang màu sắc hiê ̣ n đaị , Chế Lan Viên đi sâu tìm vào quá khư
Chiêm Thành với những điêu tàn , đổ nát, rùng rợn. Đứng ở hiện tại Chế Lan
Viên laị dưn
g lên môt
khoảng thời gian trong quá khứ để dường như ông
muốn nối liền sự sống và cái chế t bằng cách ghi laị từ ng sự vâṭ và chứ ng tích
u trầm, tưởng tương những dấu vêt́ hủy hoaị của tháng năm . Dấu vêt́ ấy nói
với con người hiên
taị rằng cả nước non Chàm sup
đổ kia vân
đang tồn tai
trong dòng suy tưởng của môt thi si ̃ thần đồng:
“Đây những thá p gầy mòn vì mong đơị Những đền xưa đổ ná t dướ i thờ i gian Những sông vắng lê mình trong bóng tối
Những tươn
g Chà m lở lói rỉ rêu than”
( Trên đường về)
Ta thấy môt
Chế Lan Viên luôn hướng về qua khứ than khóc , rên rỉ nỗi
sầu vong quốc của dân Chiêm Thành nhưng cũng có môt Chế Lan Viên đã ca
ngơi
cái huy hoàng của nước non Chiêm , vẻ huy hoàng của điện đài cung
điêṇ , của vua quan Chiêm bên cạnh những thướt tha bay lươn của người
Chiêm nữ yêu kiều “Bóng Chiêm nương dần khuất dướ i sương sa”:
“Đây trong á nh ngoc lưu ly mờ ảo
Vua quan Chiêm say đắm thiṭ da ngà
Những Chiêm nữ mơ mà ng trong tiếng sá o Cùng nhịp nhàng uyển chuyển uốn mình hoa”
( Trên đường về)
Chế Lan Viên quay về quá van
g để nói nỗi bi phân
của hiên
taị bằng hình
ảnh lạ là sự “quá i đản”. Dĩ vãng dân tộc Chàm hay dân tộc Việt cũng đều rực
rỡ, hào hứng với bao chiến công huyền thoại . Là một t hi si ̃ nhay cảm , Chế