duy, làm cho tư tưởng bay lên thành hình tương. Những vấn đề to lớn của dân
tôc̣ , của giai cấp xã hội loài người là nội dung chính đặt ra trong những tác phẩm.
Thơ chính luân
cũng thường dùng những khái niêm
triết hoc
để phân
tích thế giới khách quan. Có những trường hợp nhà thơ trực tiếp phát biểu
công khai những quan điểm chính tri ̣của mình trước những sự kiên của đời
sống. Những chính kiến, quan điểm, những phân tích, những phán đoán chính
Có thể bạn quan tâm!
- Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 5
- Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 6
- Chính Luận Như Yếu Tố Cốt Lõi Tạo Nên Phong Cách Chế Lan
- Cảm Hứng Lịch Sử Về Cái “Điêu Tàn” Và Tư Duy Siêu Hình
- Cảm Hứng Dân Tộc Thời Đại Và Tư Duy Biện Chứng Lịch Sử
- Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 11
Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.
luân
sẽ tao
thành măṭ chủ yếu của hình tươn
g thơ . Quan điểm chính tri ̣bôc lô
công khai và trưc tiêṕ trong thơ, tạo nên chất thép, chất chiêń đấu của thơ ca.
Như văn học chính luận truyền thống, thơ chính luân thường dùng tư duy
lôgic chăṭ chẽ và ngôn ngữ chính luân đanh theṕ , để phân tích , lý giải, biên
luâṇ , bảo đảm được tính nhất quán không hề mâu thuẫn trong mạch suy nghĩ
phân tích, tạo nên sức thuyết phục và lôi cuốn mạnh mẽ . Thơ chính luân đa
góp cho văn học nhiều tiếng nói mới : tiếng nói dõng dac
, buôc
tôị , vạch mặt
kẻ thù. Tiếng nói tranh luân , đối thoaị . Tiêń g nói mỉa mai châm biêḿ . Tiêń g
nói kêu gọi thức tỉnh. Tiếng nói cổ vũ ngơi
ca ...Tất cả đều đươc
đan cài trong
môt
bài thơ chính luân
. Chính vì thế thơ chính luận có sức chiếm lĩnh rất
mạnh không phải ở những dòng cảm xúc , sự đa daṇ g của hìn h ảnh thơ , mà chính là ở chất thép cuả tư tưởng, sự sắc sảo của tư duy , ở những luận điểm sắc bén.
Hòa chung vào dòng chảy lịch sử ấy , cùng với một nội dung phong phú ,
thơ chống Mi ̃ Chế Lan Viên đánh dấu môt bước phát triên̉ mới về phong cách
nghê ̣thuât
. Nếu như trước Cách Maṇ g , giọng thơ Chế Lan Viên ảo não, lạnh
lẽo, điên loan, thì đến “ Ánh sáng và phù sa” là cái chân thật của cuộc số ng
mới. Đặc biệt đến những tập thơ chống Mĩ , Chế Lan Viên có nhiều tìm tòi ,
sáng tạo , thể hiên
cuôc
sống môt
cách phong phú đa daṇ g trên nhiều măt .
Trong “Ánh sáng và phù sa” tuy không còn cái lẻ loi , nhưng vân còn cái gì
quẩn quanh. Đến “Hoa ngày thường chim báo bão” giọng thơ mới thực sự cởi mở và gần gũi hơn.
Có thể coi thơ chống Mĩ Chế Lan Viên là một sự khẳng điṇ h trong
phong cách. Điều đó là hê ̣quả tất yếu của cuôc sống chiêń đấu củ a dân tôc .
Trong những bài thơ chống Mi ̃ , Chế Lan Viên đã đến với tuyến đầu cuôc
chiến đấ u của dân tôc
và thời đai
. Trong những bài thơ giai đoan
này , hiên
thưc
đấu tranh của nhân dân đươc
đăṭ lên hàng đầu trở thành đối tươn
g cảm
nghĩ và và thể hiện trực tiếp . Đây chính là một bước phát triển và khẳng định
thơ chính luâṇ
Qua môt
trong sáng tác của Chế Lan Viên.
quá trình hình thành và phát triển theo chiều dài của lic̣ h sử ,
thơ Chế Lan Viên đã khẳng điṇ h vi ̣trí và tầm quan tron
g của thơ chính luận
trong nền thi ca dân tôc
tao
nên môt
phong cách nghê ̣thuâṭ đôc
đáo như môt
đăc
sản riêng của mình.
Chế Lan Viên bước lên thi đàn Viêṭ nam với tâp
thơ đầu tay “Điêu tà n”
đã từ ng là m xôn xao dư luân
môt
thời . Trong “Điêu tà n” âm điêu
chính là sư
đổ vỡ, là tâm trạng đau buồn , cô đơn đến kinh kh ủng của một cá i tôi bất lưc
đến thảm hại . Xuyên suốt tâp
thơ là môt
tiếng rên dài tuyêṭ von
g . Cảnh đất
nước huy hoàng đổ nát , lo sơ ̣ trư ớc tương lai đen tối là nội dung chính trong
tâp
thơ này. Chính vì vậy trong thời kỳ này Chế Lan Viên đã có nhiều bài thơ
nói lên nỗi day dứt của một đất nước đau thương , đổ nát. Nhà thơ đã tìm cho mình những “ tinh cầu” , “vũ trụ” để làm nơi lẩn tránh hiện thực , tự giam mình trong những “tháp nghĩ”, “đài thơ”.
Cách Mạng tháng Tám thành công , như môt
ngon
gió mới đã giải thoát
cả một lớp văn nghệ sĩ đang bơ vơ chưa tìm được hướng đi . Chế Lan Viên đa
bước ra môt
ngày mới đầy ánh sáng , từ bỏ “những tinh cầu giá lan
h”, những
giấc môn
g triền miên trong trăng sao và tình ái.
Tâp
thơ “ Gử i cá c anh” đươc
viết trong kháng chiến đã đánh dấu bước
chuyển biế n dầu tiên c ủa Chế Lan Viên . Cuôc
sống mới đã ùa vào trong thơ
Chế Lan Viên môt
cách maṇ h mẽ , tươi mới , xao đôn
g với vẻ nguyên sơ va
trần trui
của nó . Nhà thơ đã có ý thức sáng tác thơ để phục vụ kháng chiến ,
hăm hở đi vào cuôc
khá ng chiến. Do vây
cách diên
đaṭ cũng dễ hiểu phù hơp
với quần chúng nhân dân . Trước những chất liêu
sống của hiên
thưc
Chế Lan
Viên đã viết đươc
môt
số bài thơ mang hơi thở của hiên
thưc
lúc bấy giờ như
“Trườ ng Sơn ”, “Bữa cơm thườ ng trong bản nhỏ ”....Xuất phát từ nhu cầu
muốn trình bày nhân
thứ c về chính tri ̣và triết lý, từ nguyên
von
g muốn thơ co
tác dụng cổ vũ và trực tiếp “ chào mừng” (1950), có thể coi là những thí
nghiêm
đầu tiê n của Chế Lan Viên theo hướng này . “Chào mừng” không chi
là tiếng reo vui chiến thắng , mà còn muốn tuyên truyền chiến thắng. Sứ c khái quát cao là đặc điểm ta bắt gặp trong những sáng tác thời kỳ này . Câu thơ về
nghê ̣thuât Lan Viên:
đã có dáng dấp quen thuôc
sau này trong những sáng tác của Chế
“Ngà y mai chú ng ta xòe cá nh lử a bao
la của những chiến dic̣ h oai hù ng.
Ngày mai chúng ta tháo cái đê ngăn trượng
của những cuộc phân công trọng đại. Chiều hôm nay trờ i Đô Lương treo đỏ những tin mừ ng”
(Gử i các anh)
Chế Lan Viên cũng đã thí ngh iêm
môt
cách diên
đaṭ mới , cách nói gần
gũi với văn xuôi vào thơ và ít nhiều cũng đã có những thành công nhất điṇ h.
Những năm kháng chiến gian khổ chống Pháp qua đi , dân tôc
ta sống
trong những năm đầu tiên hòa bình và cuôc
sống mới . Với tâp
thơ “ Ánh sáng
và phù sa ” Chế Lan Viên đã đón nhân
cuôc
sống mới bằng những tâm traṇ g
và cảm xúc lành mạnh . Những cảm xúc , những rung đôn
g đươc
tâm hồn nha
thơ mở ra từ nhiều góc đô ̣để cảm nhân
cuôc
sống.
Có thể nói hành trình từ “ Gử i cá c anh” đến “ Ánh sáng và phù sa ” la
môt
bước tiến mới cả về chất và lươn
g , cả về nội dung và nghệ thuật . Tâp
thơ
đã chứ ng tỏ Chế Lan Viên có m ột cái nhìn thật tỉnh táo . Chế Lan Viên đã tư
bỏ những cảm xúc trữ tình bi đát, đem vào trong thơ môt niêm̀ vui lành maṇ h .
Chính vì vậy hình ảnh và ngôn ngữ trong thơ khá sinh đôn
g. Trong “Ánh sáng
và phù sa ” cảm hứ ng chính vân là cảm hứ ng về đất nước . Nó khác hẳn m ối
sầu hân
trong “ Điêu tà n”, thay vào đó là thiên nhiên đất nước lung linh màu
sắc và thấm đươm tình người . Ngoài chủ đề về đất nước , Chế Lan Viên còn
nói đến tình cảm chân thành của mình với chế độ , với nhân dân , lòng tin tưởng biết ơn của mình với nhân dân đất nước.
Tuy “Ánh sáng và phù sa” là tập thơ trữ tình, nhưng chúng ta cũng thấy
ở đây Chế Lan Viên vẫn tiếp tục mạnh dạn tìm một hướng đi cho thơ . Trong những bài thơ như “ Thơ văn xuôi” , “Tà u đến tà u đi” , “Cà nh phong lan bể”
.....đã làm tiền đề cho sự thành công của hàng loaṭ bài thơ “chính luâṇ ” , “văn
xuôi” ở những tâp
thơ sau . Trong những bài thơ ấy luôn có sự kết hơp
giữa
những hình tươn mẽ.
g thơ với những tìm tòi sáng tao
có sứ c thuy ết phục mạnh
Bước vào những năm sáu mươi - những năm cao trào của xây dưn
g va
chiến đấu, Chế Lan Viên tiếp tuc
viết “ Hoa ngà y thườ ng –chim bá o bão”. So
với những tâp
thơ trước, đây không chỉ là môt
bước tiến mới về đề tài mà còn
về cảm hứ ng thơ ca và sự sáng tao
trong nghê ̣thuât
. Với ý nghia
đó “ Ánh
sáng và phù sa” khép lại một con đường đi , “Hoa ngà y thườ ng chim bá o
bão” mở ra môt chăṇ g đường mới . Trong những trang thơ nghi ̃ về thơ , Chế
Lan Viên đã khẳng điṇ h thơ phải hành đông , thơ là câu hỏi,là đặt một vấn đề ,
đồng thời cũng tìm đến môt lời giải đáp.
Trong “Những bà i thơ đá nh giăc ”, Chế Lan Viên đã phát huy lối đánh
đic̣ h sắc sảo của thơ đả kich, đi vào truc
diên
tấn công kẻ đic̣ h ở những măṭ cơ
bản nhất. Nhà thơ vạch trần bản chất gian sảo của kẻ thù , có lúc căm giận, xót
xa khi nghi ̃ đến những đau thương mất mát của dân tôc . Với“Hoa ngà y
thườ ng chim bá o bão ” tình cảm lui về phía sau , lý trí vượt lên như một cảm hứ ng thuần nhất . Chế Lan Viên từ ng khẳng điṇ h “ Thơ cần có ích - Hãy bắt đầu từ nơi ấy mà đi ”, nhà thơ muốn câu thơ phải được đường ngắm thẳng ,
sao cho “viên đan
vut
ra liền tớ i đích” (Nghĩ về nghề , nghĩ về thơ ). Nhà thơ
muốn tìm cách nói trưc tiêṕ nhất , cấp bách nhất của thời đaị nóng bỏng .
Nhiều bài thơ trong “Hoa ngà y thườ ng chim bá o bão ” mang đâm
nét tính
chất anh hùng ca thời đai
. Nhà thơ đã biểu hiện chủ nghĩa anh hùng cách
mạng trong thơ một cách độc đáo . Thơ đã thưc sự trở thành một vũ khí sắc
bén, trưc
tiếp tham gia vào cuôc
kháng chiến chống Mĩ của dân tộc. Chế Lan
Viên đã biết tân
dun
g m ột cách triệt để mọi kinh nghiệm và sở trường của
mình trong các tập thơ trước. Từ môt đốm lử a nhỏ nhoi của lòng yêu nước , tư
môt
tư duy năng đôn
g giàu suy tưởng , từ môt
thói quen hay dùng những khá i
niêm
đồ sô ̣: thế giớ i, thiên hà , vũ trụ, tinh cầu đã đươc
nhà thơ tiếp tuc
phát
triển ở những tâp
thơ giai đoan
sau.
Trong “Đường vào thơ’ Lê Đình Ky ̣nhân
xét “ môt
tá c phẩm ra đờ i no
là sự tiếp tục của những tác phẩm trước (phủ nhận siêu hình) nhưng không
phải là một sự lặp lại quẩn quanh”[46,164]. Nhân
xét đó hoàn toàn chính xác
với quá trình hình thành môt phong cách nghê ̣thuâṭ trong thơ Chế Lan Viên .
Với những sáng tao
nghê ̣thuâṭ có ý nghia
khẳng điṇ h ấy “Hoa ngà y thườ ng -
chim bá o bão ” đã mở ra môt chăṇ g đường mới trong thơ Chế Lan Viên -
phong cách suy tưởng , chính luận . Cũng chính từ thành tựu này , Chế Lan
Viên tiếp tuc
khẳng điṇ h mình môt
cách vững vàng trong “ Những bà i thơ
đá nh giăc̣ ” và hàng loaṭ tác khẩm khác về sau này .
1.3.3. Thơ chính luân
trong sư ̣ nghiêp
sá ng tá c củ a Chế Lan Viên
Thơ chính luân
trong sự nghiêp
sáng tác của Chế Lan Viên : coi đó như
môt
daṇ g thơ đăc
biêṭ, tổng hợp.
Thơ chính luân
là sản phẩm củ a cuôc
kháng chiến chống Mi ̃ cứ u nước,
là yêu cầu tất yếu của thời đại mới . “Từ chỗ là đăc
điểm của môt
và i nhà thơ
dần dần trở thà nh đăc
điểm chung về phong cá ch của môt
và i nhà th ơ”
[40,56]. Trong đôi
ngũ sáng tác đông đảo ấy ta vân
nhân
ra môt
tiếng nói
riêng, môt
phong cách riêng , môt
khuôn măṭ riêng của Chế Lan Viên không
thể trôn
lân
. Là một người không ưa dễ dãi , Chế Lan Viên đã không ưa môt
cái gì xuôi chiều. Với mỗi hiên
tươn
g , mỗi vấn đề , nhà thơ đều muốn đi vào
chiều sâu, bề trong của nó - để tìm tòi, khám phá, phát hiện những cái mới có ý nghĩa sáng tạo nghệ thuật. Chế Lan Viên từ ng cho rằng:
“Dù là ngoc
thì cũng nhiều viên ngọc.
Chứ đâu phải cứ xanh xanh vin
h viên
môt
mà u trờ i”
Chế Lan Viên luôn tìm tòi môt
phương thứ c biểu hiên
mới cho thơ
mình. Đặc biệt trong nh ững bài thơ chính luận , nhà thơ thường sử dụng lối cấu tứ tổng hợp với tầng tầng lớp lớp nghĩ suy.
“Thơì sự hè 72 – Bình luận” là một tứ th ơ tiêu biểu cho daṇ g thơ tổng
hơp
, khái quát của nhà thơ . Trong khuôn khổ môt
bài thơ lớn , nhà thơ đ ã đặt
ra rất nhiều vấn đề , mỗi vấn đề đươc
xuất phát từ môt
từ riêng biêt
, đươc
soi
sáng từ nhiều góc độ và nó được liên kết với nhau bằng một cảm hứng thi ca
thống nhất tao
thành môt
bài thơ đôc
lâp mà vân
bảo đảm đươc
n ội dung và
tính nghệ thuật. Điều đó đươc
thể hiên
trong những bài thơ lớn như “ Thờ i sư
hè 72 - Bình luận” của nhà thơ.
Về hình thứ c, câu thơ Chế Lan Viên cũng có những tìm tòi thể nghiêṃ và nhà thơ cũng đạt được những thành công nhất định . Với ý điṇ h b ao trùm
hiện thực trên một diện rộng , câu thơ của Chế Lan Viên giàu lươn
g thông tin ,
nhà thơ phá vỡ khuôn khổ và nhịp điệu quen thuôc
tao
ra những câu thơ dài
rôn
g có sứ c chứ a lớn . Chế Lan Viên đã sử dun
g rất n hiều cách nó i như: nói
bóng, nói lượn quanh, cách đối chữ, đối hình ảnh:
“Buôn Mê Thuât
ngà y 10 tháng 3 đòn điểm huyêt
tuyêt
vờ i.
Rụng công trên Plây cu 18,19 tháng ba giặc tháo chạy tơi bời.
Ngày 26 tháng 3 các vua xưa ở Ngọ môn lại cúi đầu dướ i sao
vàng rực rỡ.
Ngày 29 tháng 3 thiết giá p ta tiên hai hà ng và o sân bay Nướ c Măn.
Đà Nẵng đây chỉ môt
nghìn quân ta mà mườ i muôn lin
h nguỵ
chử a hoà n hồn.
Tổ quốc thu về Bá n đảo Sơn Trà và những Ngũ há nh sơn”.
(Chế Lan Viên-Hái theo mùa Tr 114).
Trong thơ Chế Lan Viên, hai bài thơ “Bánh ve” như những tuyên ngôn trong thơ Chế Lan Viên:
“Sau này anh đọc thơ tôi nên nhớ Có phải tôi viết đâu? Một nửa
và “Trừ đi” có thể xem
Cái cần viết vào thơ, tôi đã giết đi rồi! Giết một tiếng đau, giết một tiếng cười, Giết một kỷ niệm, giết một ước mơ,
Tôi giết cái cánh sắp bay...trước khi tôi viết
Tôi giết bão táp ngoài khơi cho được yên ổn trên bờ Và giết luôn mặt trời trên biển,
Giết mưa và giết cả cỏ mọc trong mưa luôn thể Cho nên câu thơ tôi gày còm như thế
Tôi viết bằng xương thôi, không có thịt của mình. Và thơ này rơi đến tay anh
Anh bảo đấy là tôi?
Không phải!
Nhưng cũng chính là tôi - người có lỗi! Ðã giết đi bao nhiêu cái
Có khi không có tội như mình!”
“Chưa cần cầm lên nếm, anh đã biết là bánh vẽ Thế nhưng anh vẫn ngồi vào bàn cùng bè bạn Cầm lên nhấm nháp.
Chả là nếu anh từ chối
Chúng sẽ bảo anh phá rối Ðêm vui
Bảo anh không còn có khả năng nhai Và đưa anh từ nay ra khỏi tiệc...
Thế thì đâu còn dịp nhai thứ thiệt? Rốt cuộc anh lại ngồi vào bàn Như không có gì xảy ra hết
Và những người khác thấy anh ngồi, Họ cũng ngồi thôi
Nhai ngồm ngoàm...”
( Trừ đi)
(Bánh vẽ)
Tuy có môt
số han
chế trong sáng tác song chúng ta không thể không
phủ nhận những thành công mà Chế Lan Viên đã đạt được . Là một nhà thơ
có phong cách nghệ thuật độc đáo , ông đã có nhứ ng đóng góp quan trong vào
sự phát triển của nền thơ hiên
đaị Viêṭ Nam . Và với những tìm tòi sáng tạo
trong nghê ̣thuâṭ , Chế Lan Viên đã góp môt tiêń g nói ri êng khẳng điṇ h vi ̣tri
quan tron
g của mình trong thơ chính luân
nói riêng , trong nền thơ ca Việt
Nam nói chung