Lan Viên không thể để thưc
tế này ngoài trường cảm xúc của mình . Chế Lan
Viên đã gây ấn tươn
g sâu sắc đối với moi
tâm hồn khi nói lên nỗi đau khổ, nói
lên lòng tiếc thương môt
dân tôc
, môt
nền văn minh đôc
Có thể bạn quan tâm!
- Chính Luận Như Yếu Tố Cốt Lõi Tạo Nên Phong Cách Chế Lan
- Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 8
- Cảm Hứng Lịch Sử Về Cái “Điêu Tàn” Và Tư Duy Siêu Hình
- Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 11
- Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 12
- Các Quan Niệm Về Biểu Tượng Nghệ Thuật
Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.
đáo ấy, trong cái đau
khổ chung của cả dân tôc lúc bấy giờ.
Phải chăng khóc than dân tôc
Chàm để thứ c tỉnh chính dân tôc
mình, làm
cho tinh thần yêu nước của moi
người có môt
chiều sâu mới , lắng đon
g laị để
có dịp bung ra thành sứ c maṇ h mới . Chế Lan Viên không chỉ viết “Điêu tà n”
cho dân tôc
Chàm mà nhà thơ viết cho chính dân tôc
Viêṭ Nam.
Trong “Điêu tà n” người ta không khỏi bỡ ngỡ khi bắt găp những hình
ảnh máu xương , sọ huyệt,...vì nó là chủ trương nghệ thuật của Chế Lan Viên ,
đó là sự cố tình phơi bày những hình ảnh của cái đau thương để tao “cảm giá c
đê mê, tê liêṭ ”. Tác giả “Điêu tà n” đã gây cho Hoài Thanh cái cảm giác “ đầu tôi choá ng vá ng , không còn biết mình là người hay ma” , sau khi đi vào thế giới “lạ lùng mà rùng rợn” của Điêu tà n.
“Cá i sọ trắng siêu hình” mà Chế Lan Viên nhìn ngắm thưc
chất la
những ý niêm , những tư tưởng siêu hình của ông , giúp ông giải phó ng khỏi
những khủng hoảng thưc
taị để hướng về cái không tồn tai
, cái phị hiện thực
bằng trí tưởng tương thần bí . Chính những “chiếc sọ ngườ i” ,“chiếc sọ dừ a’ ,
“xương khô” ,“đốm lử a ma trơi” ,“đầu lâu” ,“bãi tha ma” ,“đá y m ồ sâu”, “hồn”,“má u”...là nguồn cảm xúc của thơ:
“Và hồn, máu, óc, tim trong suối mưc̣
Đua nhau trà o lên giấy khú c buồn thương”
Chế Lan Viên say sưa triết luân
(Tiết trinh) với ma quỷ , với xương khô. Nước Chiêm
xưa, đối với ông , chỉ là một cảnh chợ chiều vắng ngắt, sớm tối đi về . Ông
nhai xương , uống tủy , ông chơi với trăng , ông đùa với sao ; ông lăṇ g nhìn
những hòn gac̣ h trong tháp Chàm theo nhau rơi rung ; nứ c nở khóc tình với
bóng người thiếu nữ đến tự nước non Chiêm. Nhiều hình ảnh về sự chết chóc, xương máu, sọ người, não tủy, thịt da được miêu tả tỉ mỉ đế n nỗi toàn bô ̣tâm trạng như bị xô lệch về một phía buồn thương đến tuyệt vọng:
“Hỡi chiếc sọ ta vô cù ng rồ dại
Muốn riết mi trong sứ c man
h tay ta
Để những giot
má u đà o còn đon
g lai
Theo hồn ta tuôn chảy những hồn thơ Ta muốn cắn mi ra từ ng mảnh nhỏ
Muốn điên cuồng nuốt cả khối xương khô”
( Cái sọ người).
Chế Lan Viên đã“tìm hiểu thưc
tiên
” qua môt
thế giới hư vô do hồn ma
bóng quỷ dẫn dắt . Cái thế giới mông lung ấy đã khiến ông không còn giữ
đươc
cốt cách của môt
Chế Lan Viên thường nhâṭ nữa . Nhà thơ đã nhập thân
vào thế giới hư ảo với hồn ma bóng quỷ:
“Ta sẽ nhâp khớ p xương lên đỉnh so
Ta sẽ ca những giong của hồn điên
Để trôi đi ngà y thá ng năn
g ưu phiền”
( Điêu
nhac
điên cuồng)
Có thể nói cái chết và hư vô , tồn taị và sự sống luôn luôn là những căp̣ phạm trù thôi thúc nhà thơ đào sâu, bới kỹ để tìm những lời giải đáp . Nhà thơ
cũng hốt hoảng , sơ ̣ hai
, muốn bứ t mình ra khỏi thế giới ấy “Có ta không ?
Nắm giù m tay ta lai - Hãy bẻ giùm cây bút của ta đi” . Ba mươi bảy bài thơ
của “Điêu tà n” thể hiên
những khắc khoải , đau đớn của môt
linh hồn . Tìm
đến tận cùng của bóng tối và cái chết đau đớn ngụp lặn trong đó , hồn thơ siêu hình lôi ông vào cõi sâu của cõi rợn ngợp:
“Ai kêu ta trong cù ng thẳm hư vô
Ai ré o goi trong muôn sao chớ i vớ i
Nàng! Nàng! Nàng!
Thôi chính nà ng đang mong đơị ”
( Ngủ trong sao)
Chế Lan Viên đã đăt “Nà ng” vào một thê giới vĩ mô , trước cái vô cùng
vô tân
của không gian và thời gian . Khi đó Chế Lan Viên đã tạo ra một sự đối
lâp
giữa cái hữu han
và cái vô han
, giữa cái hiên
thưc
và hư vô . Thưc
chất do
tư duy siêu hình đã khiến ông tuyêṭ đối hóa cái tương đối và hoài nghi sự tồn tại hữu hình.
Với đaị dương ngôn từ của ý tưởng, bản thể con người như tan biến hẳn ,
thi nhân như chơi vơi giữa muôn nghìn sóng dồn dâp
, giữa muôn điêu
thần bi
của vũ trụ. Ông đã ẩn mình vào trong cái Tôi cuồng loaṇ , ở đó tư duy hướng vào trong để mặc sức thể hiệ n tâm traṇ g cá thể . Đó là tâm traṇ g buồn đến tê
liêṭ môi
giác quan.
“Điêu tà n” miêu tả môt “ cái tôi’ trữ tình năng đ ộng muốn tìm hiểu về
cảnh ngô ̣xung quanh , về bản thân mình . Và Chế Lan Viên rơi v ào bi kịch là
không có khả năng nhân thứ c, lý giải biết bao điều trong cuộc sống:
“Trờ i xanh ơi hỡi xanh khôn nói
Hồn tôi muốn hiểu chẳng cù ng cho”
( Đoc
sách)
Căn bêṇ h tâm tưởng lớn nhất của tác giả “Điêu tà n” chính là tâm trạng
buồn, buồn đến tuyê ̣ t von
g . Trong “Điêu tà n” nhà thơ đã bộc lộ nội tâm
không hề đơn giản, những traṇ g thái buồn, đau đớn, tuyêṭ von
g...là cái Tôi nôi
cảm tư duy hướng nội hoàn toàn . Tác giả như thu vào lòng mình cả một thế
giới đầy biến đông, môt
thưc
taị đổ nát, và những nỗi khao khát, u sầu.
Thơ Chế Lan Viên giàu triết lí mà vân rất thơ , không khô khan vì những
hình ảnh ông sử dụng có tính tượng trưng . Nhà thơ ít có những chi tiết sù sì ,
lấy thẳng thưc tê.́
2.1.2. Cảm hứng dân tộc thời đại và tư duy biện chứng lịch sử
Trái với quan điểm siêu hình , “quan điểm biên
chứ ng xem xé t sự vât
trong mối quan hê ̣vớ i cá c sự vât
khá c , trong sự vân
đôn
g vin
h viên
, biến đổi
thườ ng xuyên và trong sự phá t triển” [46,13]. Nếu như tư duy siêu hình tuyêt
đối hóa các măṭ đối lâp
, thì “tư duy biên
chứ ng là phản á nh mối quan hê ̣biên
chứ ng có trong thế giớ i khá ch quan , phản ánh sự vận động và phát triển củ a
mọi sự vật và hiện tượng . Vân
đôn
g và phá t triển là môt
thuôc
tính bản chất
của hiện thực”. “Giớ i tự nhiên là hòn đá thử và ng của phé p biên chứ ng ...Xét
đến cùng thì các sự vật đều diễn ra một cách biện chứng c hứ không phải siêu
hình rằng tự nhiên không phải là vĩnh viễn vận động đề trong môt
cá i vòng
luẩn quẩn luôn luôn lăp
lai
, mà phải trải qua một lịch sử thật sự” [13,13].
Phương pháp tư duy biên chứ ng là phương pháp tư duy chun g nhất, tốt nhất.
Chế Lan Viên đã sử dun
g chủ yếu phương pháp tư duy biên
chứ ng trong giai
đoan
mới . Trong thơ Chế Lan Viên vừ a có tính chăṭ chẽ của tư duy thơ biên
chứ ng vừ a có yếu tố trữ tình đằm thắm.
Nếu như trước Cách mạng nhà thơ còn mơ hồ với một thế giới siêu hình ,
bế tắc “Vớ i tôi tất cả như vô nghia” thì nay “Khi đã có hướ ng rồi” tư duy thơ
ông được khơi nguồn từ hiện thực , dần dần xóa nhòa ranh giới của cái ảo mơ
hồ. Những hình ảnh thơ đã trở nên cụ thể , vân điểm mới:
đôn
g và phát triển theo quan
“Khi đã có hướ ng rồi, mối buổi sá ng buổi chiều ngó như vô vi Đều đú c thà nh chiến lũy chở che tôi
Trong thung lũng đau thương vân tim̀ ra vũ khí
Phá cô đơn- “ta” hòa hơp
vớ i “ngườ i”
( Khi đã có hướng rồi).
Con đường đi của dân tôc
, của nhân lạo gắn liền mật thiết với lịch sử của
tâm hồn. Với Chế Lan Viên, đây cũng là quá trình đi lên thống nhất . Ở những
bài lấy từ chủ đề cái riêng với tư cách là nội dung phản án h- thì tác giả bắt
đầu từ cái chung để suy tưởng . Hiên
thưc
khách quan giống như môt
“hoàn
cảnh”, môt
quy luâṭ quyết điṇ h “tính cá ch” của cái tôi trữ tình: “ Như đất nướ c sau mườ i năm tà n phá Như dòng sông sau mù a mất phù sa
Như á i tình khi ngà y đã tan hoa
Như ổ mât
khi hè về trú t hết
Lại vẫn còn
Môt
trờ i xanh rất biếc
...Anh mớ i vừ a qua môṭ Có hề chi cuộc sống vân
thờ i đau xót tuần hoà n
Trái tim nghiêng như thần tượng lở dần
Đã đứ ng dây
đẩy và nh xe lên trướ c”
(Nay đã phù sa)
Thơ ca phải gắn liền với đời sống , có thể nói thơ ca là sự sống .Thơ ca la
tâm tình của con người .Thơ ca phải nói lên sự đồng cảm tích cưc làm cho ý
nghĩa của đời sống được nâng cao hơn , con người yêu thương nhau hơn . Thơ
ca phải hướng tâm hồn người đoc về những lý tưởng thẩm mỹ tốt đẹp.
Có thể nói tư duy siêu hình trong thơ Chế Lan Viên đã giúp ông bày tỏ
tấm lòng thiết tha của mình đối với vân mêṇ h của đất nước , của dân tộc dựa
vào khả năng hiểu biết và phân tích , bình luận trong từng thời điểm lịch sử để
thấy đươc
vóc hình và dáng đứ ng của tổ quốc.
2.2. Cái tôi trữ tình biện luận
Trong thơ chính luân
Chế Lan Viên cái tôi trữ tình biên
luân
chiếm chu
đao
trong sáng tác . Khi đã vươt
khỏi cái riêng tư , cái Tôi nhỏ bé đến với cái
Ta rôn
g lớn của quần chúng , nhà thơ đề câp
đến những vấn đề có tính chất
chân lý . Trong các tâp thơ của Chế Lan Viên , rất khó tìm thấy hình ảnh môt
bà mẹ , môt
người anh hùng có tên tuổi nào , chỉ có nhân dân Việt Nam anh
hùng. Thể hiên
hình ảnh ấy , môt
măt
là do nhà thơ đã thưc
sự gắn mình vào
cuôc
sống chiến đấu của dân tôc
. Măṭ khác là thưc
tế cách maṇ g ,hiên
thưc
cách mạng đã vang dội vào thơ Chế Lan Viên chính là : dân tôc ta, đất nước ta. Cái Ta bao trùm che khuất át cái Tôi.
ta , non sông
Thơ chống Mỹ là môt bước phát triên̉ mới trong sáng tác của Chế Lan
Viên. Song song với những bài thơ chính luân
với sứ c chứ a sự kiên
lớn , viết
về sự nghiêp
đấu tranh giải phóng của dân tôc
, ca ngơi
Tổ quốc và vac̣ h măt
kẻ thù...là những bài thơ tứ tuyệt viết về những cái đời thường , với những suy nghĩ riêng tư dằn vặt của nhà thơ. Chế Lan Viên đã viết nhiều đề tài và chủ đề
khác nhau nhưng nổi lên vẫn là những nhân vâṭ trữ tình tâp thể và hình ảnh
cái Ta với những hình tươn
g Tổ quốc , nhân dân,hình ảnh Bác Hồ và bộ mặt
kẻ thù. Với môt
tầm nhìn bao quát nhà thơ đã ngơi
ca Tổ quốc đau thương va
anh dũng trong những ngày đánh Mỹ. Nhà thơ đã nói lên niềm tin và lòng biết
ơn sâu sắc của dân tôc đối với Đảng, Bác kính yêu. Chế Lan Viên vac̣ h măṭ kẻ
thù cùng với những tội ác và những âm mưu xảo trá của chúng.
2.2.1. Cái tôi cô đơn
Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên xuất hiên
trong nhiều hình thái
khác nhau : “Khi thì lộ rõ , khi thì ẩn khuất , khi thì như môt
đối tươn
g phản
ánh, khi thì laị dung, có khi lai thay đổi liên tuc̣
chính là cá i tôi tá c giả – chủ thể thẩm mỹ , khi thì thiên về nôi thiên về hình thứ c . Nó đã có một chặng đường phát triển và từ Điêu tà n đến Hái theo mùa”[43,152].
Trong “Điêu tà n” - tâp thơ đầu tay của Chế Lan Viên cái Tôi thường
nằm dưới daṇ g biểu hiên
trưc
t iếp như là nhân vâṭ trữ t ình duy nhất . Tuy
nhiên cái Tôi ấy lại đội lốt chữ “ Ta” nên hơi khó phân biêt
. Trong hầu hết
các bài thơ, cái “Ta” ấy là cái Tôi trữ tình lô ̣rõ, xuất hiên
ở khắp moi
nơi, đôi
khi nó laị xuất hiêṇ Chế Lan Viên viết :
với kẻ khác . Trong môt
bài thơ của tâp
thơ “ Điêu tà n”,
“ Ta găp
nà ng trên môt
vì sao nho,̉
Ta hôn nà ng trong bóng nú i mây cao,
Ta ôm nà ng trong những nguồn trăng đô,̉ Ta ghì nà ng trong những suối trăng sao”
Cũng có khi nó lai
xuất hiên
như môt
đối tươn
g thẩm mỹ :
“ Ai bảo giù m : Ta có ta không?”
“Cá i tôi trữ tình xuất hiên
trưc
tiếp trong thơ trữ tính như vây
tao
điều
kiên
cho Chế Lan Viên bôc
lộ cảm xú c và suy nghĩ trưc
tiếp . Nhưng vì những
cảm xúc và suy nghĩ ấy lại hướng vào chính mình nên cái tôi trữ tình tưởng
như đồng nhất vớ i cá i tôi tá c giả , đó là tình trang nhà thơ tự khai thá c mình ,
phân tích tình cảm riêng mình mà không hướ ng và o hiên
thưc
cuôc
sống. Đặc
điểm nà y thích hơp
vớ i thơ lãng man
. Nếu xé t cá i ta theo ý nghia
cá i chung ,
cái xã hội có tính lịch sử thì trong Điêu tàn chưa có . Điêu tà n chỉ nói đến
“Co
Ta” môt
cá ch chung chung , trừ u tươn
g, đai
biểu cho cá i quan niêm
“bể
khổ trần gian”. Như vây
cá i ta đang ẩn khuất” [43,153]
Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên có một sự thay đổi theo các
chăṇ g đường sáng tác của nhà thơ . Giai đoan trước và sau Cách maṇ g có môt
sự chuyển đổi rõ nét . Nếu đăṭ các tâp
thơ “ Điêu tà n” bên canh tâp
thơ “Gử i
các anh”, ta tưởng như của hai tác giả khác nhau . Sự khác nhau đó thể hiên
trên cả nôi
dung, hình thức, cả chất và cả lượng.
Ngay từ những bà i thơ trong “Điêu tà n” nhà thơ đã thể hiện tình cảm xót xa đau thương của mình đối với một đất nước Chàm đổ nát và vùi chôn
trong quên lan
g. Đó là những tình cảm còn mơ hồ xót xa: “Đây những thá p gầy mòn vì mong đơi Những đền xưa đổ ná t dướ i thờ i gian
Những sông vắng lê mình trong bóng tối
Những tươn
g Chà m le lói rỉ rêu than.
(Điêu tàn bài : “Trên đường về”).
Cách mạng T háng tám và cuộc chiến trường k ỳ của dân tộc đã vạch
cho thơ Chế Lan Viên môt
con đường đi tới . “Từ chân trờ i của môt
ngườ i tớ i
chân trờ i của tất cả” . Trong “Gử i cá c anh” tình cảm đối với đất nước đã đổi khác đi nhiều . Nhà thơ cảm thấy đi đâu , ở đâu nơi chân trời hay góc biển cũng ấm tình đất nước quê hương.
2.2.2. Cái tôi hòa nhập
Cái tôi trữ tình trong thơ Chế Lan Viên có một sự thay đổi theo các
chăṇ g đường sáng tác của nhà thơ . Giai đoan trước và sau Cách maṇ g có môt
sự chuyển đổi rõ nét . Nếu đăṭ các tâp
thơ “ Điêu tà n” bên canh tâp
thơ “Gử i
các anh”, ta tưởng như của hai tác giả khác nhau . Sự khác nhau đó thể hiên
trên cả nôi
dung, hình thức, cả chất và cả lượng.
Trong tâp
thơ “ Gử i cá c anh” , người đoc
không thấy cái tôi - nhân vât
trữ tình số môt đâu cả . Chúng ta chỉ thấy những chữ như “ chúng tôi”, “con”
chỉ một vài lần nhắc lại một cách chung chung mà những người kháng chiến xưng hô với nhau. Ở đây ta thấy “Cái ta đang dần dần mở rộng từ cái ta Việt
Nam đến cá i ta quốc tế , từ cá i ta ban bè đến cá i ta đồng chí anh em ”
[43,153]. Ta cũng thấy ở đây cái ta xuất hiên rất ít và cũng chưa điṇ h hình la
cái ta dân tộc, giai cấp hay nhân dân . Ta chỉ thấy đó là nhữ ng hình ảnh chung chung như: mấy vùng xóm nghèo , mấy người vê ̣quốc hy sinh , những bà me
hâu
phương và những người ban
mới là Liên Xô và Trung Quốc.
Trong tâp thơ này cái tôi hầu như không xuất hiện nhiều , mà thay vào
đó là cái ta phát triển , hình tượng thơ trở nên có bề rộng mà thiếu đi bề sâu .
Điểm nổi rõ nhất trong tâp thơ này đó là hầu hêt́ các bài thơ đêù là những bài
thơ dài, có bài dài tới chín trang , câu thơ cũng gian ra quá lỏng , có những câu