Một Số Hình Ảnh Biểu Tượng Trong Thơ Chính Luận Chế Lan


giác phản ánh tr ước đấy : “Biểu tươn

g là hình ảnh đươc

tá i hiên

, đươc

hình

dung lai

́ i những thuôc

tính nổi bât

của sự vâṭ” [47,58].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.

Trong nhân

thứ c cảm tính , biểu tươn

Thơ chính luận Chế Lan Viên từ góc nhìn tư duy nghệ thuật - 14

g mới chỉ là biểu tươn

g ở cấp đô

thấp, đơn giản do tư duy trưc

qu an hình ảnh đem laị . Còn môt

biểu tươn

g cao

hơn hẳn đó là biểu tươn

g của tưởng tươn

g . Tâm lý học định nghĩa : “ Biểu

tương của tưởng tượng là một hình ảnh mới được xây dựng từ những biểu

tươn

g của trí nhớ , nó là biểu tươn

g của biểu tươn

g [36,36].

Như vây

, từ những điṇ h nghia

trên chúng ta có thể khẳng điṇ h : biểu

tươn

g là khâu liên kết các giai đoan

nhân

thứ c của cảm giác trưc

quan với tư

duy trừ u tương . Cùng với cảm giác , tri giác, biểu tượng đã tạo ra những tiền

đề cơ sở cho giai đoạn nhận thức lí tính . Nó còn góp phần quan trọng giúp

con người nhân

đươc

những thuôc

tính bản chất, tính quy luật của sự vật, đem

lại những hiểu biết sâu sắc về sự vậ t. Bởi lẽ biểu tương luôn gắn liêǹ với các

khái niệm, với những phán đoán, suy li-

đăc

biêṭ là trí tưởng tương

Tưởng tươn

g là môt

quá trình tâm lí phản ánh những cái chưa từ ng co

trong kinh nghiêm

cá nhân bằng cách x ây dưn

g những hình ảnh mới trên cơ

̉ những biểu tươn

g đã có . Đó là môt

quá trình nhân

thứ c, sáng tạo ra cái mới

đươc

bắt đầu bằng biểu tươn

g và thưc

hiên

chủ yếu bằng hình ảnh cu ̣thể, biểu

tươn

g của trí nhớ , do nhân

thứ c thu lươm

, cung cấp . Tưởng tươn

g là môt

đường dây nối liền những hiên

tươn

g riêng rẽ thành môt

mac̣ h nguồn thống

nhất. Trí tưởng tượng chắp cánh cho tâm hồn bay lên vượt ra khỏi giới hạn không gian và thời gian cu ̣thể mà trở về với quá khứ , sống với ước mơ tương lai...Giá trị của biểu tượng chính là tìm được lối thoát trong hoàn cảnh có vấn

đề ngay cả khi k hông có đủ điều kiên

để tư duy . Nó cho phép “nhảy cóc” qua

môt

vài giai đo ạn của tư duy mà vẫn hình dung ra kết quả cuối cùng . Đo

chính là nguồn gốc mang tính “ hiêu

lưc

”, mang “́ c man

h ” kì diêu

của tri


tưởng tươn thuâṭ.

g ở con người thường đươc

phát huy maṇ h mẽ trong lin

h vưc

nghê

Trong từ đ iển biểu tương văn hóa thế giới , khái niệm biểu tượng được

dùng với những biến đổi đáng kể về ý nghĩa và được chú ý với nghĩa tượng trưng. Các nhà văn hóa học đã phân biệt rạch ròi giữa các hình ảnh tượng

trưng với tất cả các lối diên

đaṭ bằng hình ảnh khác ( như vâṭ hiên

, biểu hiêṇ ,

loại suy, triêu

chứ ng , dụ ngôn, ngụ ngôn, luân

lí... thâm

chí cả phúng du ̣ , ẩn

dụ) mà họ gọi chung là những dấu hiệu không vượt qua mức độ của sự biểu

nghĩa, đồng thời cũng chỉ ra môt

số đăc

trưng của biểu tươn

g như sau:

Biểu tươn

g khác với dấu hiêu

ở chỗ : dấu hiêu

là môt

quy ước tùy tiên

trong đó có cái biểu đaṭ và cá đươc

biểu đaṭ vân

xa la ̣với nhau , trong khi biểu

tươn

g giả điṇ h có sự đồng chất giữa cái biểu đaṭ và cái đươc

biểu đaṭ nhờ

dân

dắt của trí tưởng tươn

g . Trí tưởng tượng là sức mạnh năng động làm biến

dạng các sao chép thực dụng do tri giác cung cấp và c ải tạo các hình ảnh của

cảm giác, tri giác nhằm tao

ra cái mới dưới tác đôn

g của năng lưc

tổ chứ c . Có

thể nói biểu tươn

g luôn rôn

g lớn hơn cái ý nghia

đươc

gán cho nó môt

cách

nhân taọ , nó có sức vang cốt yếu và tự sinh. Nó không dừng lại ở chỗ chỉ tạo

nên những côn

g hưởng mà giuc

goi

moi

sự biến đổi trong chiều sâu . Biểu

tươn

g Trống đồng Đông Sơn không chỉ đơn thuần là chứ ng tích văn hóa của

thời kì Văn Lang – Âu Lac mà còn là niềm tự hào của bao thế hệ Việt Nam.

Bên caṇ h đó , biểu tươn

g luôn đươc

so sánh với các daṇ g thứ c gây xúc

cảm có chức năng , có tính động lực . Đặc tính của biểu tượng là mãi mãi gợi

cảm để bất tận . Những Kim Tự Tháp củ a Ai Câp

, hay chùa Môt

Côt

ở Viêt

Nam ...trải qua bao thời đại vẫn còn gợi cảm cho nhiều nghệ sĩ trong nhiều

lĩnh vực hoạt động sáng tác văn hóa văn nghệ , trở thành biểu tươn

g sống mai

trong lòng nhân loaị . Mỗi con người thấy ở đấy cái năng lưc của mình có thể

nhân

ra. Thiếu đi sự thâm thúy sẽ không nhân

thứ c đươc

biểu tươn

g . Do vâỵ ,


viêc

tiếp nhân

biểu tươn

g đòi hỏi môt

thái đô ̣nhâp

cuôc

, môt

sự trải nghiêm

nhạy cảm chứ không phải m ột lối khái niệm hóa . Mỗi nhóm người , mỗi thời

đaị có những biểu tươn

g của riêng mình . Rung đôn

g trước những biểu tương

đó ́ c là tham gia vào nhóm người và thời đaị ấy.

Như vây

, nhìn từ góc độ văn hóa , khái niệm biể u tươn

g đã đươc

xác

đinh với nhiều tầng ý nghia

. Ngoài ý nghĩa miêu tả hình ảnh cảm tính vật chất

của hiện thực khách quan và ý nghĩa tượng trưng khái quát nó còn biểu hiện chiều sâu cảm xúc, còn mang tính dân tộc và thời đaị.

*Biểu tươn

g dướ i góc đô ̣văn hoc

Trong văn hoc, khái niệm biểu tượng cũng được xem xét từ nhiều khía

cạnh nhưng chủ yếu ở giá trị khái quát , tương trung . Vì thế có thể gọi biểu

tươn

g hoăc

tươn

g trưng . Biểu tươn

g hay tươn

g trung có nhiều điểm giống ẩn

dụ. Để tránh nhầm lân

, các nhà phong cách học và thi pháp học đã phân biệt

điểm giống và khác nhau giữa biểu tương và ẩn du ̣như sau:

- Biểu tươn

g và ẩn du ̣giống nhau ở hai điểm:


quan.

+ Chúng đều được biểu thị bằng hình ảnh cảm tính về hiện thực khách


+ Chúng không chỉ mang nghĩa đen , nghĩa biểu vật mà nói đến biểu

tươn

g và ẩn du ̣là nói đến hiên

tươn

g chuyển nghia

, nghĩa biểu cảm , nghĩa

hàm ẩn.

- Biểu tươn


g và ẩn du ̣khác nhau ở tính bền vững và tính biến đổi , tính

ước lệ và tự do . Biểu tươn

g thường mang tính kí hiêu

, tính quy ước , nghĩa là

chỉ cần nêu lên hình ảnh biểu tượng là người đọc đã hiểu cái mà nó tượng trưng. Còn ẩn dụ tự do hơn, còn giữ nguyên dấu ấn cá nhân, biến đổi linh hoat

hơn, liên tưởng rôn

g rai

hơn biểu tươn

g , số lươn

g cũng nhiều hơn nhưng

không bền vững bằng biểu tương.


V.I Eremina – nhà nghiên cứ u văn hoc

Nga đã phân biêṭ như sau : “Ẩn

dụ là thơ ca dân gian , đươc

sinh ra tứ c thờ i và mất đi rất nhanh . Biểu tương

đươc

hình thà nh trong quá trình thờ i gian dà i và sau đó sống hà ng trăm năm.

Biểu tươn

g đươc

hình thà nh trong quá trình thời gian dài và sau đó sống

hàng trăm năm . Ẩn dụ là yếu tố biến đổi , còn biểu tượng không biến đổi mà bền vững. Ẩn dụ là một phạm trù thẩm mĩ mà phần lớn tự do tách khỏi phong

cách ước lệ . Biểu tươn

xác định” [79,138].

g thì lại được giới hạn nghiêm túc bởi hệ thống thi ca

Các nhà nghiên cứu lý luận văn học của trường ĐHSP Hà Nội định

nghĩa: “Biểu tươn

g là hình tươn

g từ ngữ có tính chất tin

h taị , cố điṇ h, thườ ng

xuyên như là kí hiêu

cho hiên

tươn

g đờ i sống” [29,324].

Tuy nhiên, giữa ẩn du ̣và biểu tươn

g viêc

phân điṇ h ranh giới chỉ có ý

nghĩa tương đối, vì biểu tượng là ẩn dụ được sử dụng ở mật độ cao hơn, lăp đi

lăp

laị , mang tính quy ước. Ý nghĩa biểu cảm, chất thẩm mi ̃ thơ ca mang tính

nghê ̣thuâṭ cao qua viêc

̉ dun

g biểu tươn

g . Nó không chỉ đơn thuần là tầng

nghĩa hàm ẩn của một so sánh ngầm , ví ngầm mà nó đạt tới giá trị tượng

trưng. Biểu tươn

g có nghia

rôn

g, nghĩa hẹp:

Theo nghia

rôn

g , biểu tươn

g là hình tươn

g đươc

hiểu ở bình diên

ký

hiêụ , là ký hiệu mang tính chất một hình thê từ ngữ chứa tính đa nghĩa của

hình tượng. Phạm trù tượng trưng nhằm chỉ cái phần mà hình tươn

g vươt ra

khỏi chính nó , là sự hiện diện của một nghĩa nào đóvừa hòa hợp với hình

tươn

g, vừ a không đồng nhất với hình tương.

̀ điển thuâṭ ngữ văn hoc

đã điṇ h nghia

biểu tươn

g như sau : Trong

nghĩa rộ ng, biểu tươn

g thể hiên

đăc

trưng “phản á nh cuôc

sống bằng hình

tươn

g văn hoc

nghê ̣thuâṭ ”. Văn hoc

nghê ̣thuâṭ là môt

hình thái ý thứ c xã hôi

đăc

thù , phản ánh cả thế giới khách quan theo những nguyên tắc , phương

thứ c, phương diên

phản ánh đời sống văn hoc

của nghê ̣thuâṭ vừ a là sự tái


hiên

thế giới đồng thời cũ ng là hiên

tươn

g đầy tính ước lê ̣. Các tác giả đã lý

giải: “Bằng hình tươn

g nghê ̣thuât

sá ng tao

ra môt

thế giớ i hoà n toà n mang

tính biểu tượng” . Như vây

, trong nghia

rôn

g , khái niệm biểu tượng gần gũi

́i tính ước lê ̣trong văn hoc

nghê ̣thuâṭ.

Theo nghia

hep̣ , biểu tươn

g hay còn goi

là tươn

g trưng, là “môt

phương

thứ c chuyển mã của lờ i nói” đăṭ bên caṇ h ẩn dụ, hoán dụ hoặc là “môt hình nghệ thuật đặc biệt có khả năng truyền cảm lớn, vừ a khá i quá t đươc̣

loaị bản

chất của hiên

tươn

g nà o đấy , vừ a thể hiên

môt

quan niêm

, môt

tư tưởng hay

môt

triết lý sâu xa về con ngườ i và cuôc

đờ i , là phép chuyển nghĩa dựa vào

những ẩn du ̣ tu từ đươc dù ng nhiều lần , dùng phổ biến và trở nên quen thuộc

́ i moi

ngườ i đến mứ c hễ nhắc đến vât

đó ai cũng hiểu thống nhất nôi

dung

của nó” [27,41].

Theo Nguyên


Ngân Hoa trong “ Tìm hiểu những nhân tố tác động tới ý

nghĩa của biểu tượng” ( TCNN số 10/2006). Theo nghia

rôn

g nhất biểu tương

( symbol) là một loại tín hiệu mà mặt hình cảm tính ( tồn taị trong thưc khách quan hoặc trong sự tưởng tượng của con người

t hể

Ví dụ, trong ca dao cổ nói đến “ con cò ” là người ta liên tưởng ngay tới

người nông dân hiền hâu

chất phác hoăc

người đàn bà lam lũ vất vả . Trong

văn hoc

cổ , nói đến từ ng, cúc, trúc, mai là người ta liên tưởng đến những

phẩm giá của người quân tử . Ngày nay nhắc đến “bồ câu” người ta liên tưởng đến hòa ảnh bình. Ngay cả hình ảnh mũ tai bèo , dép cao su , tay cày , tay súng....con tàu trắng, miếng da lừa...cũng được dùng làm biểu tượng.

Tóm lại , dù được định danh nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau ,

biểu tươn

g luôn đươc

khẳng điṇ h là môt

phương tiên

tao

hình và biểu đaṭ co

tính đa nghĩa thể hiện dưới dạng môt

hình tươn

g cu ̣thể , cảm tính , đươc sư

dụng lặp lại nhiều lần trong tác phẩm và có tính giá trị gợi cảm cao.


3.3.2. Một số hình ảnh biểu tượng trong thơ chính luận Chế Lan

Viên


Chế Lan Viên đã xâm nhâp vào những bài thơ của mình bằng cả môt hê

thống biểu tươn

g đa nghia

giàu giá tri ̣biểu trưng như: cõi âm, lịch sử. Đối với

Chế Lan Viên , biểu tươn

g là nhân tố quan tron

g , là chìa khóa để mở ra thế

giới nghê ̣ thuâṭ. Đặc biệt với những biểu tương ấy đã giúp cho thơ Chế Lan

Viên có diên

mao

riêng, vị trí riêng trong giai đoạn văn học chứa đầy phức tạp

và thử thách đối với một bản lĩnh sáng tạo của người nghệ sĩ.

Loại hình ảnh biểu tượng - tương trưng l à loại hình ảnh kép . Loại hình

ảnh này rất đặc trưng , góp phần thể hiện rõ nét thi pháp và phong cách nghệ thuâṭ thơ Chế Lan Viên. Chảng hạn, hình ảnh con cò nhiều lần xuất hiện trong thơ. Ở bài Tàu đến , chiếc thuyền n hỏ đi bán than “ trong cá c xóm là ng qua

̃a” đươc ví như “cái cò lặn lội bờ sông” đầy vất vả của ca dao . Ở bài “con

cò” thì cò đã đươc

hình tươn

g hóa thành môt

ẩn du ̣ tươn

g trưng cho toàn bài .

Nhiều ẩn du ̣thoáng qua bà i thơ như những điểm sáng cũng giàu chất truyền thống. Hoa nhiều khi rất thâṭ ở ngoài đời “ chỉ một nhành hoa . Tôi sững sờ ”,

Hoa tăn

g cho em là hoa sim nú i”...nhưng hoa lắm lúc thâṭ mơ hồ : “Mai, hoa

em lai

về” . Măṭ trăng – măt

người rất quen thuôc

trong thơ ca truyền thống

nhiều lần xuất hiên

trong thơ ngày nay dưới ngòi bút tài hoa Chế Lan Viên :

Trăng, Bay ngang măṭ trời, Ôi chi ̣Hằng Nga- cô gái Nga...

́i nền văn hoc

́i , nhiều biểu tươn

g đã mang t ính phổ biến . Khía

cạnh đóng góp của Chế Lan Viên ở đây là làm phổ biến thêm những giá trị

biểu tươn

g ấy. Khi Chế Lan Viên viết:

“ Và Bá c đã thắng tên khổng lồ điên tư

Ngờ mà u hồng ngon cờ , sắc đỏ trá i tim”

Ta thấy “ngọn cờ hồng , trái tim đỏ” đã quen thuôc cho biêủ trưng của

nhiêṭ tình lý tưởng Cách mạng. Nhưng “khổng lồ điên

̉ ” thì thâṭ mới la.

Dầu


vâỵ , ta hiểu ngay đó là ám chỉ đế quốc Mi ̃ . Cũng như ở câu thơ “Môt

viên

gạch hồng, môt

trá i tim hồng , môt

ngon

̀ hồng là m sứ c man

h” thì cái mới

đươc

khắc hoa

thêm để trở thành ấn tươn

g trong cả m thu ̣là môt

viên gach

hồng”. Ta nhớ ̀ lâu, Chế Lan Viên đã viết:

“Môt

viên gac

h hồng Bá c chống lai

cả môt

mù a băng giá

Viên gac̣ h hồng đã có ý nghia như sự kiên cường quả cảm chống tra

mọi khó khăn trở ngại , bất chấp moi

trở lưc

thù đic̣ h . Nhà thơ Tố Hữu cũng

đã ̀ ng hình tươn

g hóa viên gac̣ h với ý nghia

“nung tâm huyế t” tứ c môt

gia

trị biểu trưng khác . Nhưng mùa hoa trái trong thơ đã mang nhiều nghia

biểu

tươn

g khá phổ biến. Tố Hữu viết: “Hoa mơ lai

trắng, vườ n cam lai

và ng” hay

rõ hơn và tượng trưng hơn “ Mùa cam đang ngọt địa cầu ” cũng như Chế Lan

Viên viết “cây ngot

và trá i là nh” ngày thắng Mĩ đều muốn ghi lại những biểu

tươn

g cho hòa bình , hạnh phúc. Nhưng Chế Lan Viên viết “ Mùa nhân dân

thì đây lại là một biểu tượng độc đáo từ sự liên tưởng đôt

xuất, kì lạ mà có thể

hiểu và chấp nhân

đươc

. Vàng vốn là biểu tượng cho cái gì có giá trị cao nhất.

Vàng trong thơ Chế Lan Viên mang giá t rị tương tự nhưng có ý nghĩa biểu trưng khác nhau.

Trong thơ Chế Lan Viên laị có daṇ g hình ảnh biểu trưng cho khái niệm,

tư tưởng nhằm thể hiên

môt

cách nghê ̣thuâṭ những khái niêm

ý tưởng trừ u

tươn

g đa daṇ g và phứ c tap

nhiều khi rất khó diên

đat

. Sự biểu hiên

ấy có khi

bằng hê ̣thống hình ảnh.

Chế Lan Viên đã ̉ dun


g biên


pháp đối lâp


, tương phản để vac̣ h rõ tôi

ác của kẻ thù , dùng biện pháp khắc họa chân dung để vạch rõ bộ mặt của kẻ thù:

“Ghê sợ thay chú ng vân

có măt

ngườ i.

Đú c như ta bằng chất và ng đep

nhất.

Dệt như ta bằng tấm lụa của đời


Măt

kẻ giất lai

giống măt

ngườ i bi ̣giết

Măt

kẻ thù là gương măt

hay cườ i”

(Hoa ngày thường - Chim báo bao).

Sự kết hơp

giữa tính chân thưc

và tính ảo của hình tươn

g thơ đã tao

nên

́ c m ạnh của hình tượng thơ Chế Lan Viên . Tác giả đã sử dụng sự kết hợp này để thể hiện sự mong ước vào tương lai , hạnh phúc ấm no của dân tộc - đó là hình ảnh Bác với ánh sáng trí tuệ, là hình ảnh đất nước trong tương lai:

“Kìa! Bóng Bác đang hôn lên hòn đất

Lắng nghe trong mà u hồng hình đất nướ c phôi thai.

(Ánh sáng và phù sa)

Những hình ảnh chân thưc

, những cảm xúc thưc

tế để khắc hoc

cái ảo ,

để hiện thực hóa cái ảo đa được Chế Lan Viên sử dun

g môt

cách cu ̣thể.

Bên caṇ h những ưu điểm ấy thì trong thơ chính luân

Chế Lan Viên vân

còn một số hạn chế nhất định . Chế Lan Viên đã quá say sưa triết lý hùng biên

cho những quan điểm của mình , nên thơ ông đã kh iến cho người đoc cảm

thấy khó hiểu , khó nhớ trước những triết lý khô khan , những diên dải dài

dòng khó hiểu như trong “ phản diễn ca hay phản diện ca” . Môt số câu thơ ,

đoan

thơ đã rơi vào chủ nghia

hình thứ c , câu thơ cầu k ỳ khó hiểu , bạn đọc

khó nắm bắt ý thơ :

“Những phá o –sáng –ngoại –tình thắp những tiệc-hoa đăng của quỷ...”

Hình thức chơi chữ lủng củng không có ý nghĩa cũng tạo nên sự khó

hiểu:


“Nó bá sú ng ấy , bá bom ấy, bá vật ấy, bá thần ấy, bá vật hóa ra chúa

ra thần linh ấy.

Chúng hóa ra ấy,hóa ra tha ,tha hóa ấy.

(Những bài thơ đánh giăc̣ .Tr.14)

Xem tất cả 131 trang.

Ngày đăng: 19/02/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí