Thực Trạng Dạy Học Môn Lịch Sử Ở Các Lớp Chuyên Trên Địa Bàn Thành Phố Hà Nội


48


những người thầy phải tự trang bị cho mình những hành trang tri thức cần thiết để đáp ứng tốt công tác giảng dạy, đặc biệt trong môi trường dạy chuyên, nơi đối tượng hướng tới của GV là những HS có năng khiếu, có niềm đam mê môn học.

2.1.4.3. Với học sinh

Các chủ đề lịch sử là nguồn tài liệu giúp HS có điều kiện được học tập chuyên sâu, rèn luyện các kĩ năng, phương pháp học tập. Đặc biệt, đối với HS chuyên, trong quá trình học tập cần có tài liệu dùng để phân tích, đối chiếu, nghĩa là có tài liệu cho tư duy. Để phát huy tính tích cực hoạt động tư duy của học sinh, “chúng ta không nên quên rằng tài liệu học tập tự nó đã chứa đựng nhiều yếu tố kích thích, động viên tính ham hiểu biết và tính tích cực tư duy của học sinh. Đó là tính chất mới lạ của tri thức khoa học, tính sáng tỏ của các sự kiện, tính độc đáo của các kết luận, phương pháp đặc sắc để phát hiện ra các khái niệm đã được hình thành, sự thâm nhập sâu xa vào bản chất của hiện tượng” [63; 88]. Vì vậy, giáo viên phải thường xuyên chăm lo sao cho bài giảng của mình không đơn thuần thuật lại sách giáo khoa mà cần “có nội dung sinh động, hấp dẫn sâu sắc, làm phong phú và mở rộng thêm những kiến thức vốn có của học sinh” [63; 89]. Việc bổ sung kiến thức và cụ thể hóa những luận điểm chung trong nội dung của sách giáo khoa không những làm cho bài giảng được dễ hiểu hơn mà còn tạo cho nó tính hấp dẫn, cảm xúc và động viên được tính tích cực tư duy của học sinh.

Việc thiết kế và tổ chức dạy học theo chủ đề có ý nghĩa quan trọng đối với giáo viên và học sinh.

- Về kiến thức

Khi kiến thức lịch sử được thiết kế theo chủ đề thì việc học tập các chủ đề lịch sử là trục nội dung kiến thức chính trong chương trình. Giúp giảm tải và làm sâu sắc hệ thống kiến thức cho học sinh. Thay vì học nhiều sự kiện dàn trải, kiến thức theo chủ đề đã được tích hợp, có mối liên hệ mạng lưới nhiều chiều; làm cho nội dung học tập trở nên hấp dẫn và ý nghĩa hơn. Kiến thức thu được nằm trong một mối liên hệ mạng lưới với nhau. Kết thúc một chủ đề học sinh có một tổng thể kiến thức mới, tinh giản, chặt chẽ, có sự khái quát, nâng cao hơn so với kiến thức trong sách giáo khoa.

- Về năng lực

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 169 trang tài liệu này.

Trong xu thế đổi mới của giáo dục nói chung và giáo dục lịch sử nói riêng, việc dạy và học lịch sử theo các chủ đề cũng góp phần quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển các năng lực chung và năng lực đặc thù cho học sinh. Thông qua các nguồn sử liệu khác nhau để tái hiện lịch sử, phục dựng một cách chân thực, khách quan quá trình hình thành, phát triển của các sự kiện, quá trình lịch sử, đồng thời đặt quá trình phát triển đó trong sự tương tác với các nhân tố liên quan trong suốt quá trình vận động của chúng. Trong quá trình học tập, giáo viên không đặt trọng tâm vào việc truyền đạt kiến thức lịch sử cho học sinh mà chú trọng việc hướng dẫn học sinh nhận


Thiết kế và tổ chức dạy học các chủ đề lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến nay theo hướng phát triển năng lực học sinh chuyên Sử trường THPT thành phố Hà Nội - 8

49


diện và khai thác các nguồn sử liệu, từ đó tái hiện quá khứ, nhận thức lịch sử, đưa ra suy luận, đánh giá về bối cảnh, nguồn gốc, sự phát triển của sự kiện, quá trình lịch sử để tìm kiếm sự thật lịch sử một cách khoa học, sinh động.

Việc ứng dụng CNTT và truyền thông trong dạy học lịch sử, khuyến khích học sinh tự tìm đọc, thu thập tư liệu lịch sử từ các nguồn tin chính thống trên mạng Internet, trong thư viện để thực hiện các nghiên cứu cá nhân hoặc theo nhóm, trình bày, thảo luận kết quả nghiên cứu; xây dựng kỹ năng sử dụng các phương tiện CNTT để hỗ trợ cho việc tái hiện, tìm hiểu, nghiên cứu lịch sử. Học sinh được đặt trong những tình huống có vấn đề; được rèn luyện, phát hiện và giải quyết vấn đề, làm việc theo nhóm, coi trọng việc sử dụng các phương tiện trực quan như: Hiện vật lịch sử, tranh ảnh lịch sử, bản đồ, biểu đồ, sa bàn, mô hình, phim tài liệu lịch sử. Trong quá trình học tập, HS cũng được hướng dẫn phương pháp tự học, biết cách tìm tòi, khai thác các nguồn sử liệu, đồng thời biết cách phân tích sự kiện, quá trình lịch sử và tự mình rút ra những nhận xét, đánh giá, tạo cơ sở phát triển năng lực tự học lịch sử suốt đời và khả năng ứng dụng vào cuộc sống những hiểu biết về lịch sử, văn hoá, xã hội Việt Nam và thế giới.

Học tập lịch sử qua các chủ đề góp phần củng cố, phát triển các kĩ năng học tập bộ môn. Do hệ thống kiến thức trong chủ đề có tính khái quát trên cơ sở hệ thống kiến thức cơ bản; đồng thời có sự phát triển nâng cao và nhiệm vụ học tập cũng có nhiểu thử thách đối với người học. Vì vậy, để đạt được mục tiêu của chủ đề, các em được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự lực khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống có vấn đề, được trực tiếp quan sát, thảo luận, giải quyết vấn đề đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức, kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp "làm ra" kiến thức, kĩ năng đó, không rập theo những khuôn mâu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. Bên cạnh đó, môi trường giao tiếp thầy - trò, trò – trò trong lớp học tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con đường chiếm lĩnh tri thức khoa học. Thông qua quá trình làm việc độc lập, thảo luận, tranh luận trong tập thể, hoàn thiện sản phẩm học tập, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới.

Trong quá trình học tập theo các chủ đề, không gian dạy học cũng có thể được mở rộng không chỉ trong lớp học mà còn trên thực địa (di tích lịch sử và văn hoá), bảo tàng, khu triển lãm...; HS được tổ chức cho đi tham quan, dã ngoại, kết hợp các hoạt động dạy học trong lớp học với hoạt động trải nghiệm trên thực tế, các em sẽ có thêm điều kiện để vận dụng kiến thức, kỹ năng lịch sử vào những tình huống thực tiễn của cuộc sống.

Từ sự phân tích nói trên, chúng ta thấy, việc thiết kế và tổ chức dạy học lịch sử theo chủ đề góp phần hình thành những năng lực chung cho học sinh như: Tự chủ và tự học; giao tiếp và hợp tác; giải quyết vấn đề và sáng tạo. Đồng thời, năng lực đặc thù


50


bộ môn cũng được hình thành và phát triển với các thành phần như:

Tìm hiểu lịch sử: Nhận diện được các loại hình tư liệu lịch sử; hiểu được nội dung, khai thác và sử dụng được tư liệu lịch sử trong quá trình học tập. Trên cơ sở đó, tái hiện và trình bày được dưới hình thức nói hoặc viết diễn trình của các sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử từ đơn giản đến phức tạp; xác định được các sự kiện lịch sử trong không gian và thời gian cụ thể.

Nhận thức và tư duy lịch sử: Giải thích được nguồn gốc, sự vận động của các sự kiện, hiện tượng lịch sử từ đơn giản đến phức tạp; chỉ ra được quá trình phát triển của lịch sử theo lịch đại và đồng đại; so sánh sự tương đồng và khác biệt giữa các sự kiện lịch sử, lí giải được mối quan hệ nhân quả trong tiến trình lịch sử.

Đưa ra được những ý kiến nhận xét, đánh giá của cá nhân về các sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử trên cơ sở nhận thức và tư duy lịch sử; hiểu được sự tiếp nối và thay đổi của lịch sử; biết suy nghĩ theo những chiều hướng khác nhau khi xem xét, đánh giá, hay đi tìm câu trả lời về một sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử.

Vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học: Rút ra được bài học lịch sử và vận dụng được kiến thức lịch sử để lí giải những vấn đề của thực tiễn cuộc sống; trên nền tảng đó, có khả năng tự tìm hiểu những vấn đề lịch sử, phát triển năng lực sáng tạo, có khả năng tiếp cận và xử lí thông tin từ những nguồn khác nhau, có ý thức và năng lực tự học lịch sử suốt đời.

- Về phẩm chất

Các chủ đề Lịch sử có vị trí, vai trò quan trọng trong việc giáo dục, hình thành nhân cách, lòng yêu nước và sự hiểu biết, nhận thức về truyền thống dân tộc của con người nói chung, đặc biệt là thế hệ trẻ nói riêng.

Không chỉ hình thành năng lực đặc thù môn học, học lịch sử qua các chủ đề góp phần quan trọng và có ưu thế trong việc hình thành phẩm chất công dân như: trung thực - được thể hiện trong quá trình thẩm định tài liệu, tái hiện sự kiện, hiện tượng lịch sử; chăm chỉ - thể hiện trong quá trình tự học, chủ động hoàn thành các nhiệm vụ được phân công; trách nhiệm – thể hiện trong quá trình hợp tác nhóm để hoàn thành sản phẩm học tập; nhân ái, yêu nước – thể hiện trong quá trình học tập lịch sử mà biết yêu quê hương, khâm phục, kính trọng các anh hùng dân tộc, tự hào với truyền thống đánh giặc giữa nước, xây dựng, phát triển kinh tế - văn hóa của tổ tiên; Với tư cách là một môn khoa học, Lịch sử là một bộ môn nền tảng của khoa học xã hội và nhân văn, là cơ sở quan trọng bậc nhất để trang bị một hệ thống kiến thức về cội nguồn dân tộc, về các thành quả xây dựng và bảo vệ đất nước, về các giá trị tiêu biểu của truyền thống, văn hóa dân tộc và nhân loại. “Chính lịch sử là bằng chứng hiển nhiên về sự toàn thắng của công cuộc xây dựng, sáng tạo đối với sự tàn phá, chiến thắng của hòa bình đối với chiến tranh, sự gần gũi của các dân tộc về mặt văn hóa và các mặt khác…” [86;33]. Để từ đó, bồi dưỡng lí tưởng, các giá trị của truyền thống của dân tộc, nhất là chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập tự cường, tinh thần nhân ái, cần cù, yêu lao động..; xây dựng phẩm chất và


51


bản lĩnh con người Việt Nam.

2.2. Cơ sở thực tiễn

2.2.1. Thực trạng dạy học môn lịch sử ở các lớp chuyên trên địa bàn Thành phố Hà Nội

Hà Nội là thành phố có hệ thống trường Trung học phổ thông (THPT) hay còn gọi là các trường cấp III rất đa dạng, với khoảng hơn 230 trường THPT (công lập, dân lập, tư thục, các trường chuyên và các trường có yếu tố nước ngoài). Trong số đó có một số trường được coi là có chất lượng đào tạo hàng đầu cả nước, là nơi tập trung nhiều học sinh phổ thông ưu tú không chỉ của Hà Nội mà còn của toàn miền Bắc.

Trên địa bàn Hà Nội hiện có 6 trường Trung học phổ thông chuyên (THPT Chuyên Đại học Sư phạm Hà Nội; THPT Chuyên Hà Nội – Amsterdam; THPT Chuyên Nguyễn Huệ; THPT Chuyên Ngoại Ngữ; THPT Chuyên Khoa học tự nhiên; THPT Chuyên Khoa học xã hội và nhân văn (2019) và 2 trường Trung học phổ thông có lớp chuyên : THPT Chu Văn An; THPT Sơn Tây.

Trong số các trường THPT nói trên, có 5 trường có các lớp chuyên Sử, 4 trường trong số đó trực thuộc Sở GD&ĐT Hà Nội: THPT Chuyên Hà Nội – Amsterdam; THPT Chuyên Nguyễn Huệ; THPT Chu Văn An; THPT Sơn Tây. Trường THPT Chuyên Khoa học xã hội và nhân văn, có lớp chuyên Sử từ năm 2019 nhưng trực thuộc Đại Học quốc gia Hà Nội, độc lập trong công tác tuyển sinh.

Để vào các trường chuyên trực thuộc Sở GD&ĐT Hà Nội, học sinh lớp 9 phải có kết quả xếp loại hạnh kiểm, học lực cả năm học của các lớp cấp THCS từ khá trở lên; xếp loại tốt nghiệp THCS từ khá trở lên; đăng ký dự tuyển vào lớp 10 Trung học phổ thông có hệ chuyên, tham gia kỳ thi tuyển sinh lớp 10 chuyên do Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội tổ chức với các môn thi như Toán, Văn, Ngoại Ngữ và môn chuyên. Điểm xét tuyển là tổng điểm của 4 môn (Toán, Văn, Anh tính điểm hệ số 1; môn Chuyên hệ số 2), trong đó điểm tiếng Anh và điểm môn Chuyên phải từ 2.25 mới đủ điều kiện trúng tuyển; dưới 2.25 là điểm liệt.

Từ thực tiễn giảng dạy hệ chuyên Sử của thành phố Hà Nội trong những năm qua, chúng tôi thấy có những ưu điểm sau đây:

- Hà Nội là thành phố duy nhất trong cả nước có hệ thống lớp chuyên Sử với số lượng HS đông nhất. Nếu như các tỉnh thành khác trong cả nước thường chỉ có một trường chuyên với sĩ số không quá 35HS/1 lớp, có trường chuyên không có lớp chuyên Sử độc lập, thì Hà Nội có tới 3 trường chuyên có chuyên Sử (THPT chuyên Hà Nội – Amsterdam; THPT Chuyên Nguyễn Huệ, THPT Chuyên Khoa học xã hội và nhân văn), 2 trường THPT có lớp chuyên Sử là THPT Sơn Tây, THPT Chu Văn An. Trong đó, trừ THPT chuyên Khoa học xã hội và nhân văn thì 4 trường còn lại trực thuộc Sở GD & ĐT Hà Nội có số lượng HS chuyên đông nhất cả nước với khoảng 405 HS, trong đó: THPT chuyên Hà Nội – Amsterdam (115 HS); THPT Chuyên Nguyễn Huệ (109 HS); THPT Chu Văn An (120 HS); THPT Sơn Tây (91 HS).

- So với các trường chuyên trong cả nước, chất lượng đầu vào chuyên Sử của TP


52


Hà Nội tương đối cao, có thể xếp ở tốp đầu trong số các trường chuyên của cả nước. Qua thực tiễn công tác chấm thi tuyển sinh vào 10 chuyên, chúng tôi thấy có nhiều HS đạt điểm 8 – 9 ở bài thi môn Chuyên. Ví dụ, điểm chuẩn tuyển sinh vào hệ chuyên Sử Hà Nội năm học 2020 – 2021: trường THPT Chuyên Hà Nội – Amsterdam - 39.25; THPT Chuyên Nguyễn Huệ - 32.75; THPT Chu Văn An - 37.5. Trong khi đó, điểm chuẩn tuyển sinh của trường THPT Chuyên Nguyễn Trãi (Hải Dương) - 34,45; THPT Chuyên Bắc Ninh - 33,13; Chuyên Vĩnh Phúc – 33.92; THPT Chuyên Lam Sơn (Thanh Hóa) - 34.15; THPT Chuyên Phan Bội Châu (Nghệ An) - 41,8; THPT Chuyên Hà Tĩnh - 40.75; THPT Chuyên Lê Hồng Phong (TP Hồ Chí Minh) - 31 điểm. Đây cũng là một trong những thuận lợi cho công tác giảng dạy của đội ngũ giáo viên dạy chuyên Hà Nội. Nhiều HS không chỉ đạt điểm môn chuyên cao, mà các em còn đạt giải trong kì thi HSG môn Lịch sử cấp THCS do Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội tổ chức.

- HS chuyên Sử trên địa bàn thành phố Hà Nội có điều kiện được học tập ở thủ đô

– trung tâm kinh tế - chính trị - văn hóa của cả nước; nhiều em có niềm đam mê với Lịch sử; tự hào được sống và học tập ở thủ đô văn hiến, có điều kiện học tập tốt – được học tập trong môi trường chuyên sâu, có nhiều thầy cô giỏi, bạn giỏi, có thời lượng học tập bộ môn lịch sử nhiều hơn hệ phổ thông và nội dung kiến thức được học khá sâu sắc, toàn diện. Hàng tuần ngoài số tiết chính thức theo thời khóa biểu (03 tiết/1 tuần), HS chuyên Sử còn được học các tiết chuyên đề, các buổi bồi dưỡng học sinh giỏi các cấp. Vì vậy, đây chính là cơ hội để các em được tiếp tục phát huy năng lực, sở trường, niềm yêu thích bộ môn của bản thân. Có nhiều em đạt giải cao trong các kì thi HSG Thành phố, HS giỏi quốc gia, thi tốt nghiệp THPT đạt điểm 10 môn Lịch sử, được tuyển thẳng vào các trường Đại học Sư phạm, Luật, Học viện ngoại giao, Khoa học xã hội và nhân văn...vv

- Đội ngũ GV dạy chuyên của Hà Nội ở các trường là những thầy cô giáo có giỏi, có năng lực, kinh nghiệm trong công tác chuyên môn; 100% đều là Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử; có ý thức đầu tư chuyên môn, có tinh thần tự học, tự bồi dưỡng, không ngừng học tập nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ sư phạm; có kinh nghiệm trong công tác giảng dạy, nhiệt tình, tâm huyết, trách nhiệm với nghề.

Bên cạnh những điểm sáng nói trên, việc dạy học môn lịch sử ở các lớp chuyên trên địa bàn Thành phố Hà Nội cũng tồn tại những hạn chế nhất định. Đó chính là sự không đồng đều về chất lượng đầu vào giữa các trường có lớp chuyên trong Thành phố. Nếu như trường THPT Chuyên Hà Nội – Amsterdam có điểm chuẩn vào chuyên Sử (2020) là 39.25

- trung bình các môn Toán – Văn – Anh – Lịch sử (Chuyên) phải đạt từ 7.0 đến 8.0 điểm trở lên mới trúng tuyển thì điểm chuẩn và chuyên Sử của Sơn Tây có sự chênh lệch khá lớn:

25.5 điểm – Trung bình từ 5.0 điểm trở lên là đã trúng tuyển; Thậm chí có học sinh chỉ cần điểm môn chuyên từ 2.25 điểm – qua điểm liệt đã có cơ hội trúng tuyển.

Một số HS thi vào chuyên Sử là để chống trượt hệ phổ thông, là chỉ để lấy môi


53


trường học tập, chứ không phải vì có năng khiếu hay đam mê, yêu thích học Lịch sử. Do hệ phổ thông đầu khá cao, bình quân các môn Toán – Văn – Anh phải từ 7.5 - 8.0 trở lên mới trúng tuyển; trong khi đó, nếu các môn Toán – Văn – Anh – Lịch sử (Chuyên) đạt từ

5.0 điểm trở lên là đã có cơ hội trúng tuyển vào chuyên Sử. Vì vậy, đây là những học sinh có đầu vào thấp, năng lực và động lực học tập đối với môn chuyên không cao.

HS chuyên Sử của Hà Nội cũng là một trong những đối tượng bị ảnh hưởng lớn nhất từ sự tác động của mặt trái kinh tế thị trường trong việc lựa chọn có vào chuyên sử hay không. Có nhiều HS THCS đạt kết quả học tập xuất sắc, đam mê lịch sử nhưng không chọn chuyên Sử vì liên quan đến cơ hội lựa chọn nghề nghiệp và thu nhập trong tương lai.

Bên cạnh đó, do sự chi phối của xã hội, sự tác động từ mặt trái của kinh tế thị trường, HS chuyên Sử cũng có ít cơ hội trong việc lựa chọn những ngành nghề có thu nhập cao trong xã hội, nên trong những năm qua, bộ môn Lịch sử nói chung và Lịch sử chuyên nói riêng chưa nhận được sự quan tâm đúng mức của các cấp quản lí, xã hội và phụ huynh. Thực tế, có nhiều HS đam mê, yêu thích môn học nhưng bị gia đình phản đối và định hướng thi môn và các ngành nghề khác. Đây cũng chính là những trăn trở của các thầy cô đang hàng ngày làm công tác giảng dạy lịch sử như chúng tôi.

2.2.2. Thực trạng việc thiết kế và tổ chức dạy học theo chủ đề cho học sinh chuyên Sử ở trường THPT Hà Nội.

2.2.2.1. Mục đích, đối tượng và địa bàn điều tra, khảo sát

Mục đích điều tra, khảo sát: nhằm làm rõ thực trạng dạy học lịch sử nói chung, thực trạng của việc tổ chức dạy học theo chủ đề cho học sinh chuyên Sử ở trường THPT có hệ chuyên thuộc Hà Nội nói riêng.

Kết quả điều tra, khảo sát là cơ sở để chúng tôi làm rõ các hình thức, đề xuất các biện pháp tổ chức dạy học lịch sử theo chủ đề theo hướng phát triển năng lực học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn ở trường THPT.

Đối tượng, địa bàn điều tra, khảo sát chủ yếu của chúng tôi là GV bộ môn Lịch sử và HS các lớp chuyên Sử ở 04 trường THPT có lớp chuyên Sử trên địa bàn thành phố Hà Nội, trực thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội. Đó là các trường THPT chuyên Hà Nội - Amsterdam; THPT chuyên Nguyễn Huệ; THPT Chu Văn An và THPT Sơn Tây. Trong đó có 28 giáo viên dạy chuyên. Các thầy cô giáo dạy chuyên hầu hết ở độ tuổi từ 30 đến 45, đều là những thầy cô có trình độ chuyên môn vững vàng (100% giáo viên đều đạt trình độ thạc sĩ); có kinh nghiệm trong công tác giảng dạy, bồi dưỡng học sinh giỏi, đam mê chuyên môn và có trách nhiệm nghề.

Về phía HS, chúng tôi thực hiện điều tra, khảo sát với 280 học sinh, ở các lớp chuyên Sử khối 10, 11, 12 của bốn trường THPT chuyên Hà Nội Amsterdam; THPT chuyên Nguyễn Huệ; THPT Chu Văn An và THPT Sơn Tây.

2.2.2.2. Phương pháp và quá trình điều tra, khảo sát


54


Phương pháp điều tra, khảo sát: chúng tôi thực hiện các phương pháp trao đổi với GV và HS, quan sát thông qua dự giờ, phát phiếu điều tra đối với GV và HS để thu thập thông tin. Số liệu điều tra, khảo sát được xử lí, đối chiếu, so sánh để rút ra các kết luận khoa học.

Quá trình điều tra, khảo sát: Việc điều tra, khảo sát được thực hiện trong các năm học 2017 - 2018, 2018 - 2019, và 2019 – 2020. Chúng tôi đã tiếp xúc với GV và HS các lớp chuyên Sử để trao đổi, thảo luận, dự giờ, phát phiếu điều tra, khảo sát, thu nhận kết quả. Trên cơ sở trao đổi, thảo luận với GV, HS, quan sát dự giờ; phát phiếu điều tra, tập hợp thông tin, chúng tôi đã tiến hành phân tích kết quả và rút ra những kết luận khoa học phục vụ cho đề tài luận án.

Về phía Giáo viên

Khi được hỏi: Thầy (cô) đánh giá như thế nào về chất lượng đầu vào chuyên (Sử) của thành phố Hà Nội? Quan sát biểu đồ Hình 2.1, chúng ta thấy, có 14% số giáo viên được hỏi đánh giá cao chất lượng đầu vào của các lớp chuyên Sử trên địa bàn thành phố Hà Nội; có tới 47% số giáo viên được hỏi đánh giá chất lượng đầu vào của các trường chuyên là tương đối đồng đều; 21% giáo viên cho rằng chất lượng đầu vào các lớp chuyên Sử là trung bình và 18% giáo viên đánh giá chất lượng đầu vào các lớp chuyên Sử là thấp. Nguyên nhân của thực trạng này là do trong nhiều năm gần đây bộ môn Lịch sử không có thế mạnh trong việc phát triển nghề nghiệp và thu nhập trong tương lai; không nhận được sự quan tâm đầy đủ của các cấp quản lí, xã hội đối với bộ môn; do những bất cập về điều kiện và môi trường dạy học. Bên cạnh đó, nội dung môn học, chương trình và SGK hàn lâm, không hấp dẫn, phương pháp dạy học chậm đổi mới, nhiều HS vào các lớp chuyên Sử là để lấy môi trường học tập, không xuất phát từ niềm đam mê môn học…vv. Vì vậy, đầu vào các lớp chuyên Sử chủ yếu là những HS có kết quả học tập ở mức độ khá, các lớp chuyên Sử chưa thu hút được nhiều HS có kết quả học tập xuất sắc từ cấp THCS.

Hình 2.1. Biểu đồ đánh giá chất lượng đầu vào các lớp chuyên sử

Về khái niệm chủ đề lịch sử, 100% giáo viên khi được hỏi đều trả lời chủ đề là


55


những vấn đề nổi bật, trọng tâm, cốt yếu của từng giai đoạn, thời kì lịch sử hay là tập hợp hệ thống nội dung các sự kiện, hiện tượng lịch sử có mối liên hệ mật thiết với nhau. Điều đó cho thấy các thầy cô đều có nhận thức đúng về khái niệm chủ đề lịch sử.

Khi được hỏi quan điểm của Thầy (Cô) về dạy học theo chủ đề, 84% GV được hỏi cho rằng dạy học theo chủ đề là sự kết hợp giữa mô hình dạy học truyền thống và hiện đại, ở đó hệ thống kiến thức có sự tích hợp, tinh giản, logic thành các chủ đề hướng tới mục tiêu hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho HS. 96% GV được hỏi cho rằng dạy học theo chủ đề trong môn lịch sử nói chung và dạy học theo chủ đề cho học sinh chuyên Sử nói riêng góp phần thực hiện đổi mới và nâng cao chất lượng bộ môn. Không có thầy cô nào đồng ý cho rằng dạy học theo chủ đề vẫn là mô hình dạy học truyền thống, trong đó người Thầy đóng vai trò trung tâm. Như vậy, chúng ta thấy các thầy cô đã có nhận thức tương đối đúng đắn về dạy học theo chủ đề.

Trả lời câu hỏi : Mức độ hài lòng của thầy (cô) đối với những chủ đề phần Lịch sử Việt Namtừ năm 1919 đến nay do thầy (cô) chuẩn bị? Có 11% GV trả lời rất hài lòng; 25% GV trả lời hài lòng; 64% GV trả lời chưa hài lòng, cần cập nhật, bổ sung thêm các chủ đề.

Về mức độ cần thiết của việc bổ sung các chủ đề phần lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến nay phục vụ cho quá trình giảng dạy của giáo viên, học tập của HS chuyên, quan sát biểu đồ Hình 2.3 ta thấy: có tới 61% GV cho rằng việc bổ sung các chủ đề phần lịch sử Việt Namtừ năm 1919 đến nay phục vụ cho quá trình học tập, ôn luyện của HS chuyên là rất cần thiết, 32% GV cho là cần thiết và 7% GV cho rằng không cần thiết. Điều đó chứng tỏ rằng hầu hết giáo viên đều nhận thức được sự cần thiết trong việc bổ sung thêm các chủ đề lịch sử nói chung, đặc biệt các chủ đề phần lịch sử Việt Namtừ năm 1919 đến nay nói riêng.

Hình 2.2. Mức độ cần thiết của việc bổ sung các chủ đề lịch sử

Trả lời câu hỏi : Thầy cô thường vận dụng những phương pháp nào trong dạy

Xem tất cả 169 trang.

Ngày đăng: 20/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí