40
cơ bản). Ví dụ, trên cơ sở lí luận về con đường biện chứng của tư duy và thực tiễn dạy học phổ thông, chúng tôi thấy rằng: với HS ở cấp THCS (từ lớp 6 đến hết lớp 9), có thể xác định mục tiêu và thiết kế nội dung kiến thức để hướng tới sự hình thành và phát triển năng lực bộ môn là: 50% kiến thức cho việc tìm hiểu lịch sử - yêu cầu HS trình bày được hiểu biết, nhận diện, phân biệt được các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử là chủ yếu; 30% lượng kiến thức dùng cho việc nhận thức và tư duy lịch sử - lí giải thích được nguồn gốc của các sự kiện lịch sử và phân tích được mối quan hệ nhân quả trong tiến trình lịch sử; 20% lượng kiến thức dùng cho việc vận dụng kiến thức, kĩ năng lịch sử - rút ra được bài học lịch sử và vận dụng được kiến thức lịch sử để lí giải những vấn đề của thực tiễn cuộc sống.
Với HS THPT học theo chương trình cơ bản nói chung, chúng ta có thể xác định kiến thức cho việc hình thành và phát triển các năng lực bộ môn là: 40% cho việc tìm hiểu lịch sử; 40% cho nhận thức và tư duy lịch sử; 20% cho việc vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết các nhiệm vụ học tập và thực tiễn cuộc sống. Riêng với HS chuyên Sử, do các em là học sinh có năng khiếu, có niềm đam mê nhất định với việc học tập bộ môn, có khả năng tự học, và thời gian học tập lịch sử so với HS THCS và THPT nhiều hơn hẳn, nên hệ thống kiến thức nền tảng cơ bản dày và chắc hơn so với đối tượng HS THCS và THPT cơ bản. Vì vậy, mức độ yêu cầu về năng lực là cao hơn, có thể thiết nội dung kiến thức theo tỉ lệ: 30% kiến thức cho tìm hiểu lịch sử; 40% cho nhận thức và tư duy lịch sử; 30 việc vận dụng kiến thức, kĩ năng lịch sử để giải quyết các nhiệm vụ học tập, thực tiễn cuộc sống và định hướng nghề nghiệp tương lai.
Chúng ta có thể so sánh để thấy được mức độ nội dung dùng cho việc hình thành và phát triển năng lực cho các đối tượng HS qua bảng sau:
Mục tiêu về năng lực | |||
Tìm hiểu lịch sử | Nhận thức và tư duy lịch sử | Vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học | |
HS THCS | 50% | 30% | 20% |
HS THPT | 40% | 40% | 20% |
HS chuyên Sử | 30% | 40% | 30% |
Có thể bạn quan tâm!
- Nghiên Cứu Của Các Tác Giả Trong Nước
- Các Công Trình Nghiên Cứu Về Tổ Chức Dạy Học Chủ Đề Cho Học Sinh Chuyên Sử Ở Các Trường Thpt
- Các Loại Chủ Đề Trong Môn Lịch Sử Ở Trường Thpt Theo Chương Trình Hiện Hành: Có Các Loại Chủ Đề Sau Đây:
- Thực Trạng Dạy Học Môn Lịch Sử Ở Các Lớp Chuyên Trên Địa Bàn Thành Phố Hà Nội
- Biểu Đồ Đánh Giá Các Năng Lực Đạt Được Trong Dạy Học Lịch Sử Theo Chủ Đề
- Thiết Kế Các Chủ Đề Lịch Sử Việt Nam Từ Năm 1919 Đến Nay Cho Học Sinh Chuyên Sử Ở Trường Thpt Thành Phố Hà Nội
Xem toàn bộ 169 trang tài liệu này.
Do những đặc điểm nói trên, để phù hợp với đối tượng, đáp ứng mục tiêu hình thành và phát triển năng lực chung, năng lực đặc thù bộ môn cho đối tượng HS chuyên Sử, việc thiết kế và tổ chức dạy học các chủ đề lịch sử cần đáp ứng những yêu cầu sau đây:
- Việc thiết kế, biên soạn các chủ đề học tập cho học sinh chuyên Sử nhằm góp
41
phần nâng cao trình độ học sinh theo chương trình nâng cao, làm cho việc phân hóa của giáo dục THPT được đậm nét hơn, thể hiện ở việc học sinh chuyên Sử cần có được hệ thống tri thức và kĩ năng lịch sử dày dặn hơn so với học sinh các lớp không chuyên; song vẫn phải đảm bảo được tính phổ thông, toàn diện. Vì vậy, chủ đề để học sinh được học tập phải là vấn đề cơ bản của chương trình THPT nâng cao, đảm bảo tính toàn diện, có tính hệ thống, thể hiện mối quan hệ của lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc, giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa, ngoại giao…vv. Ví dụ như chủ đề: Sự hình thành và sụp đổ của trật tự hai cực Ianta; Hậu phương trong kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ (1945 – 1975); Vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với cách mạng Việt Nam; Những thắng lợi quân sự tiêu biểu trong kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954); Đấu tranh trên mặt trận ngoại giao (1945 – 1973)...vv. Tuy vậy, trong quá trình thiết kế nội dung chủ đề, chúng ta cần chú ý đến tính vừa sức của nội dung, đảm bảo sự cân đối giữa khối lượng và mức độ kiến thức trong chủ đề.
- Đảm bảo tính hệ thống, khái quát khi xây dựng chủ đề. Nội dung chủ đề phải có quan hệ hữu cơ với nhau, tác động chi phối lẫn nhau theo các quy luật nhất định để trở thành một chỉnh thể chứ không phải là những kiến thức rời rạc hoặc chỉ liên hệ tuyến tính (liên hệ một chiều). Bên cạnh đó, nội dung của chủ đề cũng được tổ chức, sắp xếp lại từ nhiều bài trong sách giáo khoa, có mối liên hệ mạng lưới với nhau; có những điểm tương đồng về nội dung kiến thức. Khi hình thành chủ đề thì tạo nên một chuỗi các vấn đề học tập cần giải quyết. Khi giải quyết được nhiệm vụ học tập đó sẽ tạo thành một nội dung hoàn chỉnh, toàn diện cả chiều dọc lẫn chiều ngang của chủ đề. Thậm chí có những chủ đề kiến thức có thể liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều chuyên ngành khác nhau (đảm bảo tính liên môn). Do đó, khi kết thúc chủ đề ta có một tổng thể kiến thức mới, tinh giản, chặt chẽ.
- Chủ đề cần được xây dựng theo hướng không chỉ nhằm mục đích ôn tập, củng cố kiến thức đã học mà còn đòi hỏi học sinh đào sâu kiến thức (về sự kiện, nhân vật, quy luật, khái niệm, bài học lịch sử; cả những kiến thức khoa học về phương pháp học tập). Do nội dung chủ đề là những vấn đề cơ bản, trọng tâm, ở đó lượng kiến thức vừa đảm bảo mức độ tối thiểu, cần thiết; nhưng đồng thời cũng là vấn đề được lựa chọn để nâng cao, hướng tới mục tiêu tối đa. Vì vậy học sinh sẽ được tìm hiểu, giải quyết nhiệm vụ đặt ra với nhiều hoạt động học tập từ việc tiếp xúc tư liệu, làm việc tư độc lập đến các hoạt động nhóm, tranh luận, phản biện, so sánh, phân tích, báo cáo sản phẩm với thời lượng nhiều hơn các giờ học theo chương trình sách giáo khoa. Vì vậy, các em có cơ hội đào sâu kiến thức về sự kiện, nhân vật, khái niệm, quy luật, bài học lịch sử. Các em có điều kiện để lý giải, xâu chuỗi tìm ra các mối quan hệ, tác động, ảnh hưởng của các sự kiện, hiện tượng lịch sử.
42
- Bên cạnh đó, một yêu cầu của việc phát triển tài liệu của giáo viên trong công tác giảng dạy ở các lớp chuyên (Sử) còn nhằm định hướng cho học sinh nghiên cứu khoa học phù hợp với trình độ, yêu cầu cần đạt ở mỗi lớp ở cấp THPT (theo chương trình nâng cao). Nội dung chủ đề mà giáo viên thiết kế không dừng lại ở biết lịch sử mà cần nâng cao trình độ nhận thức lịch sử. Kênh hình, tư liệu tham khảo của chủ đề phải góp phần tạo điều kiện cho học sinh tham gia các hoạt động học tập và hình thành phát triển năng lực trong học tập. Đồng thời gắn kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn đòi hỏi. Qua đó, giúp học sinh từng bước hình thành năng lực tổng kết, hệ thống hóa, củng cố, thực hành, rèn luyện kiến thức, kĩ năng đã học, biết cách để tranh luận, phản biện, rút ra kết luận, đánh giá quy luật, bài học lịch sử.
- Thông qua việc học tập các chủ đề lịch sử, không chỉ hình thành, phát triển các năng lực chung, năng lực đặc thù bộ môn mà còn góp phần quan trọng, phát huy lợi thể môn học trong việc hình thành phẩm chất công dân, giáo dục tư tưởng, tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan khoa học, lòng yêu nước cho học sinh. Đây chính là lợi thế, là vai trò chủ đạo của bộ môn trong việc giáo dục lòng yêu nước, tinh thần tự tôn dân tộc, truyền thống lịch sử và văn hoá dân tộc; giúp học sinh nhận thức và vận dụng được các bài học lịch sử giải quyết những vấn đề của thực tế cuộc sống, phát triển tầm nhìn, củng cố các giá trị nhân văn, tinh thần cộng đồng, lòng khoan dung, nhân ái; góp phần hình thành, phát triển những phẩm chất của công dân Việt Nam, công dân toàn cầu trong xu thế phát triển của thời đại; đổng thời góp phần định hướng cho học sinh lựa chọn những nghề nghiệp tương lai như: nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn, ngoại giao, quản lí, hoạt động du lịch, công nghiệp văn hoá, thông tin truyền thông…vv.
2.1.4. Tổ chức dạy học các chủ đề lịch sử cho HS chuyên Sử theo hướng phát triển năng lực
Dạy học theo hướng phát triển năng lực là quá trình thiết kế, tổ chức và phối hợp giữa hoạt động dạy và hoạt động học, tập trung vào kết quả đầu ra của quá trình này. Theo đó, nhấn mạnh người học cần đạt được các mức năng lực như thế nào sau khi kết thúc một giai đoạn hay một quá trình học tập.
Đặc điểm quan trọng nhất của dạy học phát triển năng lực là xác định và đo lường được “năng lực” đầu ra của học sinh. Dựa trên mức độ làm chủ kiến thức, kỹ năng và thái độ của học sinh trong quá trình học tập.
Dạy học theo hướng phát triển năng lực chú trọng hình thành phẩm chất và năng lực thông qua việc hình thành kiến thức, kỹ năng. Do đó, năng lực là mục tiêu cuối cùng cần đạt đến chứ không phải là nội dung kiến thức. Nội dung kiến thức được lựa chọn nhằm đạt được các mục tiêu năng lực đầu ra. Chú trọng các kỹ năng thực hành, vận dụng vào thực tiễn. Đồng thời, nội dung học tập do đó mà có tính mở, tạo điều kiện để người dạy và người học dễ cập nhật tri thức mới.
43
Xuất phát từ quan điểm nói trên, trong dạy học nói chung và dạy học Lịch sử nói riêng, giáo viên có thể thiết kế nội dung học tập thành các chủ đề; đồng thời tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh theo các chủ đề đó. Trong quá trình tổ chức hoạt động học tập cho HS, GV đóng vai trò là người tổ chức, cố vấn, hỗ trợ HS chiếm lĩnh tri thức, từng bước hình thành phẩm chất, năng lực chung và năng lực đặc thù môn học.
Đối với HS chuyên Sử, vì là HS có năng khiếu, có niềm yêu thích môn học, có khả năng tự học lịch sử và có nhiều điều kiện học tập hơn các đối tượng HS khác nên việc tổ chức dạy học các chủ đề lịch sử cho HS chuyên Sử theo hướng phát triển năng lực cũng đòi hỏi cao hơn. Để phát triển năng lực cho HS chuyên Sử trong quá trình học tập chủ đề, việc tổ chức hoạt động học tập cho HS cần khai thác hiệu quả các phương pháp dạy học phát huy được tính tích cực, chủ động và khả năng tự học của HS; tạo điều kiện để HS được tiếp xúc với các nguồn sử liệu khác nhau, định hướng cho các em biết cách khôi phục lại bức tranh quá khứ một cách sinh động, khách quan, biết thẩm định, phê phán, chọn lọc tư liệu, biết cách đặt vấn đề và hình thành kĩ năng giải quyết vấn đề. Trên cơ sở đó, các em có khả năng lí giải, phân tích, chứng minh các ý kiến, nhận định lịch sử khác nhau; đồng thời cũng biết cách bày tỏ và luận giải cho ý kiến của mình về các quan điểm, sự kiện, hiện tượng lịch sử khác nhau.
Ví dụ, để tổ chức cho HS chuyên Sử học tập chủ đề Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam theo hướng phát triển năng lực. GV có thể tổ chức, định hướng để HS được tiếp cận với các nguồn sử liệu thành văn, tư liệu kênh hình, tổ chức cho HS học tập theo nhóm hoặc dự án, giao nhiệm vụ cho các nhóm:
Nhóm 1: phân tích điều kiện bùng nổ của Cách mạng tháng Tám. Nhóm 2: khôi phục lại tiến trình của cách mạng tháng Tám.
Nhóm 3: Lí giải nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử của Cách mạng.
Nhóm 4: Phân tích bài học kinh nghiệm và rút ra tính chất, đặc điểm của Cách mạng tháng Tám.
Sau quá trình chuẩn bị, các nhóm được báo cáo sản phẩm học tập của mình, được nhận xét, tham gia tranh luận, bày tỏ quan điểm của bản thân xung quanh những vấn đề có liên quan đến Cách mạng như: Thời cơ ngàn năm có một trong cách mạng là gì; Tại sao năm 1945, điều kiện khách quan thuận lợi giống nhau nhưng chỉ có 3 nước trong khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam giành được độc lập? Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công phải chăng là một sự “ăn may”, vì nó diễn ra khi Việt Nam tồn tại khoảng trống quyền lực; Những bài học kinh nghiệm nào của Cách mạng tháng Tám có thể vận dụng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay? Đây là những vấn đề có tính chuyên sâu mà HS chuyên cần phải giải quyết trong quá
44
trình học tập một chủ đề lịch sử cụ thể. Hoàn thành những nhiệm vụ nói trên, chính là các em đang từng bước được hình thành những phẩm chất công dân thiết yếu (yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm); những năng lực chung (tự chủ và tự học; giao tiếp và hợp tác; giải quyết vấn đề và sáng tạo). Đặc biệt, thông qua học tập chủ đề, các em từng bước hình thành và phát triển những năng lực đặc thù của môn học, đó là: năng lực tìm hiểu lịch sử; năng lực nhận thức, tư duy lịch sử; năng lực vận dụng kiến thức kĩ năng lịch sử để giải quyết những nhiệm vụ học tập và các tình huống của thực tiễn cuộc sống.
2.1.5. Vai trò, ý nghĩa của việc thiết kế và tổ chức dạy học theo chủ đề cho học sinh chuyên Sử ở trường THPT
2.1.4.1. Với quá trình đổi mới
- Thiết kế và tổ chức dạy học theo chủ đề là một trong những thành tố quan trọng của quá trình đổi mới về nội dung và phương pháp giảng dạy, góp phần nâng cao chất lượng môn học; đáp ứng yêu cầu đổi mới về cả nội dung lẫn phương pháp giảng dạy, phương pháp tiếp cận và vận dụng kiến thức, hình thành những năng lực chung thiết yếu và năng lực bộ môn cho học sinh. Đồng thời, việc thiết kế và tổ chức dạy học lịch sử theo chủ đề hiệu quả cũng là một trong những yếu tố chứng minh tính đúng đắn của mục tiêu đổi mới của giáo dục nói chung và giáo dục lịch sử nói riêng.
Chương trình giáo dục phổ thông hiện hành được thiết kế theo các bài/tiết với nội dung là những đơn vị kiến thức cụ thể, sắp xếp tuần tự, mặc dù phù hợp với tiến trình tích lũy kiến thức và quản lí hoạt động dạy học theo phân phối chương trình. Tuy nhiên, chính cách sắp xếp đó đã tạo nên tính độc lập tương đối của kiến thức, không thuận lợi cho HS trong việc lưu giữ một cách bền vững kiến thức và khó khăn trong việc vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Việc thiết kế nội dung dạy học thành các chủ đề có tính bao quát, chuyên sâu, chứa một nội dung kiến thức tương đối chọn vẹn; đồng thời sử dụng các phương pháp dạy học tích cực, tập trung vào việc tổ chức, hướng dẫn để HS tự lực tìm kiếm thông tin, vận dụng kiến thức để giải quyết các nhiệm vụ học tập và các tình huống từ thực tiễn cuộc sống. Đây chính là mục tiêu hướng đến của quá trình đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới trong môn Lịch sử nói riêng.
- Việc thiết kế và tổ chức dạy các chủ đề lịch sử cho HS chuyên góp phần làm cụ thể, sâu sắc hơn cho chương trình giáo dục lịch sử hiện hành; đồng thời tạo điều kiện cho dạy học lịch sử đáp ứng mục tiêu của chương trình 2018. Bởi nó là sự kế thừa của chương trình cũ, đồng thời là sự kế tiếp cho chương trình mới ở cả nội dung lẫn các hình thức, phương pháp tổ chức dạy học. Tất cả từ nội dung đến phương pháp tổ chức các hoạt động học tập đều có sự kế thừa, đổi mới theo mục tiêu hình thành, phát triển năng lực cho HS, đặc biệt là HS có năng khiếu, có niềm đam mê học tập lịch sử.
45
2.1.4.2. Với giáo viên
Thông qua việt thiết kế và dạy học theo chủ đề, giáo viên nhận thức được đầy đủ hơn vai trò của việc đổi mới về nội dung và phương pháp giảng dạy nâng cao chất lượng bộ môn; đặc biệt dạy trong môi trường lớp chuyên – nơi mà yêu cầu đổi mới nội dung và phương pháp dạy học được đặt ra bức thiết, tiên phong nhằm góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã chủ trương tiếp tục đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục – đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến và phương tiện hiện đại vào quá trình dạy - học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho học sinh. Việc đổi mới nội dung và phương pháp có mối quan hệ mật thiết với nhau, nhưng cần nhấn mạnh vai trò quyết định của việc đổi mới về phương pháp. Chính phương pháp học của học sinh quyết định nội dung tri thức của người học. Chúng ta cần chuyển từ dạy học tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực; thực hiện mô hình giáo dục tích cực: thầy thiết kế, trò thi công, thầy trò cùng làm việc; đẩy mạnh sự tương tác hai chiều giữa thầy và trò, phát huy cao độ vai trò chủ đạo của thầy và vai trò chủ động của trò, kiên quyết phản đối lối học nhồi nhét, học chay, học vẹt, thầy nói, trò ghi chép.
Đổi mới nội dung dạy học lịch sử không phải là thay đổi nội dung các sự kiện lịch sử, mặc dù việc bổ sung thêm sự kiện sẽ làm cho nhận thức lịch sử đầy đủ hơn, phong phú hơn, mà điều quan trọng là phải luôn làm mới kiến thức cho học sinh, tạo ra tư duy lịch sử mềm dẻo, sự thấu hiểu và khả năng vận dung các tri thức lịch sử, tạo ra phong cách học lịch sử là hiểu biết, khám phá và sáng tạo.
Khi người Thầy nhận thức được đầy đủ tầm quan trọng, vai trò quyết định của bản thân trong việc nâng cao chất lượng của nền giáo dục nước nhà thì công cuộc đổi mới giáo dục nói chung và giáo dục lịch sử mới đạt được mục tiêu mong muốn. Vì vậy, quá trình đổi mới giáo dục muốn đến được với HS và toàn xã hội thì trước nhất phải xuất phát từ sự tiên phong, gương mẫu đổi mới từ người Thầy
Việc thiết kế và tổ chức dạy học theo chủ đề là cơ hội để giáo viên có điều kiện tiếp tục tự học, tự bồi dưỡng, nghiên cứu, nâng cao trình độ về chuyên môn, khả năng nghiệp vụ sư phạm, ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới, sáng tạo trong quá trình vận dụng các hình thức tổ chức, phương pháp dạy học.
Theo nhiều chuyên gia giáo dục, với đặc thù lao động sư phạm đòi hỏi sự linh hoạt, sáng tạo không ngừng của giáo viên thì năng lực tự học của giáo viên là điều kiện tiên quyết bảo đảm chất lượng dạy và học. Không những thế, một môi trường giàu tinh thần tự học của giáo viên sẽ có khả năng tạo nên những xung động, có sức lan tỏa và cộng hưởng mạnh mẽ đến việc học tập của học sinh, đến sự phát triển của
46
cộng đồng sư phạm và sự phát triển của nhà trường, xã hội. Thúc đẩy tinh thần, kỹ năng học tập trong nhà trường không chỉ cần với học sinh; giáo viên mà phải trở thành mục tiêu chiến lược trong đổi mới giáo dục. Việc tự học, tự nghiên cứu, cập nhật phương pháp dạy học mới là tất yếu đối với giáo viên khi đứng trên bục giảng. Nghề giáo nói chung, thầy giáo trường chuyên nói riêng nếu không có sự say mê, hứng thú với nghiên cứu khoa học, không có sự trải nghiệm với tri thức thì không thể làm tốt vai trò tổ chức, dẫn dắt HS lĩnh hội tri thức. Chỉ có sự chăm chỉ đào luyện kiến thức từ những người thầy mới có thể đào tạo nên những học trò giỏi và tạo cho các em niềm đam mê học tập.
Mặt khác, việc phát triển chương trình, tài liệu đối với giáo viên giảng dạy ở các trường THPT chuyên là yêu cầu cần thiết, nhằm giúp giáo viên làm quen với việc xây dựng, biên soạn tài liệu để giảng dạy, nâng cao kĩ năng xây dựng, biên soạn tài liệu, qua đó góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, chủ động được nguồn tài liệu trong công tác giảng dạy. Từ đó, những thành công hay vướng mắc cần tháo gỡ trong công tác tự học, tự nghiên cứu, thiết kế nội dung dạy học, đến những hình thức, phương pháp giảng dạy phù hợp, hiệu quả với đối tượng HS trở thành nội dung cho các buổi sinh hoạt chuyên môn của giáo viên. Đây cũng chính là cơ hội để họ được chia sẻ, giao lưu, học tập lẫn nhau.
Bên cạnh đó, để đáp ứng được những yêu cầu đổi mới trong quá trình triển khai thực hiện chương trình, sách giáo khoa mới, nhằm đạt được mục tiêu của giáo dục phổ thông, các thầy cô giáo phải thật sự cố gắng vượt qua chính mình để đáp ứng đạt chuẩn về trình độ chuyên môn nghề nghiệp. Giáo viên phải thực sự có lý tưởng nghề nghiệp, yêu nghề và nắm vững kiến thức chuyên môn được đào tạo; tích cực, chủ động học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ. Thường xuyên tìm tòi, bổ sung những tri thức chuyên môn mới thuộc lĩnh vực mình dạy ở các nguồn khác nhau nhằm bổ sung bài giảng, cung cấp thêm cho học sinh những tri thức mới, gieo vào tâm hồn các em tình cảm với môn học. Dẫn dắt, định hướng học sinh biết thu nhận, tìm kiến thức một cách chủ động, tự giác, tích cực. Từ đó, nâng cao ý thức tự giác, tự học, tự khám phá tri thức mới về môn học cho học sinh, để các em bộc lộ được năng lực của bản thân.
Thầy cô giáo phải thường xuyên đổi mới phương pháp dạy học. Tùy theo nội dung từng chủ đề mà lựa cho phương pháp, kỹ thuật, hình thức dạy học phù hợp. Việc sử dụng các phương pháp dạy học tích cực phải mềm dẻo, linh hoạt nhằm đáp ứng được các mục tiêu, hiệu quả của bài dạy đồng thời phải tăng được tính hấp dẫn của môn học, kích thích được ở các em ý muốn ham hiểu biết, thích khám phá tri thức mới.
Trong nghề dạy học, việc học tập của thầy còn mang ý nghĩa như một năng lực nghề bởi chức năng giáo dục ngày nay được nhấn mạnh đến việc dạy cho học sinh
47
cách học. Kinh nghiệm cách học của người thầy là nền tảng để thấu hiểu những khó khăn, những cản trở học tập của học sinh cũng như những ẩn chứa đằng sau các hành vi, biểu hiện học tập bên ngoài của học sinh và đó cũng là những bài học quý để thầy biết cách hướng dẫn học sinh học. Chính vì thế, thầy còn được yêu cầu trở thành chuyên gia về học tập suốt đời với ý nghĩa đó.
Ở nước ta, ngoài những xu hướng chung của toàn cầu hóa, người thầy phổ thông còn đứng trước việc thực hiện đổi mới chương trình và sách giáo khoa. Điều này lại càng đòi hỏi người thầy phải đáp ứng những yêu cầu mới, cao hơn, nặng nề hơn. Và để thực hiện được Đề án “Đổi mới Chương trình và Sách giáo khoa”, mỗi thầy cô giáo cần phải tự mình nỗ lực rèn luyện đạo đức, lối sống và nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ nhiều hơn, đồng thời ngành giáo dục cũng phải có những chính sách phù hợp để hỗ trợ người thầy giáo thực hiện tốt nhiệm vụ của mình trong bối cảnh mới.
Với đối tượng là HS chuyên, nếu chỉ dạy kiến thức trong SGK là chưa đủ, chưa thể hấp dẫn HS. N.G. Đairi – Nhà giáo dục lịch sử Liên Xô, trong tác phẩm “Chuẩn bị giờ học lịch sử như thế nào”, đã cho rằng công việc chuẩn bị nội dung cho giờ học là giáo viên phải biết “lựa chọn tài liệu kéo léo, để giờ học có sự phong phú về kiến thức, tình cảm, tư duy; xác định chất lượng của sự kiện, ý nghĩa của chúng đối với sự hình thành khái niệm, đối với việc phát triển tư duy và giáo dục đạo đức cho học sinh” [39; 35]. Tác giả Berner Meier – Nguyễn Văn Cường (2016) trong Lí luận dạy học hiện đại, cơ sở đổi mới mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học cũng cho rằng một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo viên là phải biết lựa chọn và cấu trúc hóa nội dung dạy học. Trên cơ sở chương trình khung thống nhất, tùy vào đối tượng học sinh mà có sự chuẩn bị nội dung khác nhau. Nội dung dạy học có thể được tinh gọn theo cả chiều rộng (chiều ngang) lẫn chiều sâu (chiều dọc). Việc tinh giản theo chiều rộng thể hiện ở việc “đơn giản hóa các mệnh đề trừu tượng thông qua các phương tiện truyền tải như biểu đồ, hình ảnh, đồ họa hay phương pháp”. Tinh giản hóa theo chiều sâu thể hiện ở việc lọc ra những phương diện quan trọng nhất, thiết kế những nội dung đó thành các chủ đề.
Như vậy, việc hình thành kĩ năng thiết kế được các chủ đề dạy học, bổ sung và làm phong phú thêm nguồn tài liệu giảng dạy có ý nghĩa quan trọng đối với GV trong quá trình giảng dạy, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, khi mà nền giáo dục đất nước đang đặt ra những đòi hỏi cao về nhiệm vụ phải đổi mới toàn diện, đổng bộ để phát triển và hội nhập.
Xã hội ngày càng phát triển đã và đang đòi hỏi chất lượng giáo dục không ngừng nâng cao. Mặt khác, quá trình đổi mới căn bản toàn diện giáo dục cũng buộc