Các Loại Chủ Đề Trong Môn Lịch Sử Ở Trường Thpt Theo Chương Trình Hiện Hành: Có Các Loại Chủ Đề Sau Đây:


32


dân chủ ở Việt Nam 1919-1930, chúng ta cần tập hợp, hệ thống những kiến thức có liên quan đến hai khuynh hướng dân chủ tư sản và vô sản trong phong trào dân tộc dân chủ 1919 – 1930 ở hai bài 12, 13 SGK nâng cao thành một chủ đề thống nhất, trong đó tập trung xây dựng, sắp xếp, kết nối kiến thức thành một mạch nội dung có liên quan mật thiết với nhau như: Điều kiện xuất hiện hai khuynh hướng cứu nước dân chủ tư sản và vô sản ở Việt Nam; Các phong trào yêu nước thuộc hai khuynh hướng dân chủ tư sản và vô sản. Tuy nhiên, do là chủ đề được thiết kế cho đối tượng HS chuyên Sử nên đòi hỏi HS cần đạt được mức độ tư duy cao hơn đó là: rút ra được đặc điểm của phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam những năm 1919 – 1930; Đánh giá, nhận xét được vai trò của các tổ chức cách mạng, của mỗi khuynh hướng đối với cách mạng Việt Nam; lí giải được về sự thất bại và thành công của hai khuynh hướng trong phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam từ năm 1919 – 1930.

2.1.1.2. Các loại chủ đề trong môn lịch sửtrường THPT Theo chương trình hiện hành: có các loại chủ đề sau đây:

- Phân loại chủ đề theo chương trình, sách giáo khoa có các chủ đề lớp 10, 11, 12. Ví dụ, Lịch sử lớp 10 có chủ đề về Các quốc gia cổ đại phương Đông và Phương Tây; Các cuộc khởi nghĩa/ kháng chiến chống ngoại xâm giành và bảo vệ độc lập dân tộc từ thế kỉ X đến XVIII...vv. Lớp 11 có chủ đề: Các nước tư bản chủ nghĩa giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1919-1939); Phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XIX...vv. Lớp 12 có chủ đề: Quan hệ quốc tế trong và sau thời kì Chiến tranh lạnh; Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam những năm 1919 – 1930...vv.

- Phân loại chủ đề theo địa điểm, không gian xảy ra sự kiện có thể xây dựng các chủ đề lịch sử thế giới, lịch sử dân tộc, lịch sử địa phương. Ví dụ chủ đề: Các cuộc cách mạng Tư sản ở Châu Âu – tiến trình, đặc điểm; Ba lần kháng chiến chống quân Mông – Nguyên của nhân dân Đại Việt (1258 – 1288); Giáo dục Thăng Long – Hà Nội qua các thời kì lịch sử.

- Phân loại chủ đề theo nội dung kiến thức lịch sử, có các chủ đề về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa...vv. Ví dụ: Một số cuộc cải cách hành chính của Việt Nam thời phong kiến; Những thắng lợi tiêu biểu trên mặt trận quân sự trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945 – 1954), Sự phát triển của kinh tế hàng hóa Việt Nam các thế kỉ XVI – XVIII; Văn hóa Đại Việt từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX.

- Phân loại chủ đề theo phân kì lịch sử (thời gian) có các chủ đề như: Đại Việt thế kỉ X – XV; Cuộc vận động giải phóng dân tộc ở Việt Nam 1930 – 1945; Quan hệ quốc tế 1945 – 2000...vv.

- Phân loại chủ đề theo yêu cầu học tập của học sinh (có chủ đề tự chọn và chủ đề bắt buộc). Ví dụ, trong chương trình Lịch sử lớp chuyên, HS phải học các chủ đề như: Văn hóa cổ đại Phương Đông và phương Tây; Các quốc gia phong kiến ở Đông


33


Nam Á; Truyền thống chống ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc của nhân dân Việt Nam từ thế kỉ X đến cuối thế kỉ XVIII. Bên cạnh đó, căn cứ vào việc sắp xếp thời gian học tập của trường và đặc điểm nhận thức của học sinh, giáo viên và học sinh có thể lựa chọn, thiết kế thêm các chủ đề (tự chọn) như: Tư tưởng cải cách, duy tân ở Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thề kỉ XX; Hai cuộc chiến tranh thế giới trong thế kỉ XX; Chủ quyền biển đảo Việt Nam…vv.

Theo chương trình 2018

- Chương trình môn Lịch sử 2018 phân loại chủ đề chủ yếu trên cơ sở mạch nội dung kiến thức lịch sử, có các chủ đề về chính trị, quân sự, ngoại giao, kinh tế, văn hóa...vv. Theo đó, phần Lịch sử Việt Nam bao gồm các chủ đề:

Mạch nội dung

Lớp 10

Lớp 11

Lớp 12

LỊCH SỬ VIỆT NAM




– Một số nền văn minh trên đất nước Việt Nam (trước năm

1858)



– Cộng đồng các dân tộc Việt Nam



– Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc và chiến tranh giải phóng dân tộc trong lịch sử Việt Nam (trước Cách mạng tháng Tám năm

1945)




– Làng xã Việt Nam trong lịch sử



– Một số cuộc cải cách lớn trong lịch sử Việt Nam (trước

năm 1858)



– Lịch sử bảo vệ chủ quyền, các quyền và lợi ích hợp pháp

của Việt Nam ở Biển Đông



– Cách mạng tháng Tám năm 1945, chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc trong lịch sử Việt Nam

(từ tháng 8 năm 1945 đến nay)




– Công cuộc Đổi mới ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay



– Lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam



– Hồ Chí Minh trong lịch sử Việt Nam



Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 169 trang tài liệu này.

Thiết kế và tổ chức dạy học các chủ đề lịch sử Việt Nam từ năm 1919 đến nay theo hướng phát triển năng lực học sinh chuyên Sử trường THPT thành phố Hà Nội - 6

Từ sự phân loại các chủ đề lịch sử theo Chương trình hiện hành và Chương trình môn Lịch sử 2018, chúng tôi lấy đó là một trong những cơ sở để thiết kế các chủ đề Lịch sử cho đối tượng HS chuyên Sử trên địa bàn Thành phố Hà Nội.

2.1.1.3. Đặc điểm của chủ đề lịch sử

Việc thiết kế chủ đề trong môn lịch sử hiện nay được dựa trên quan điểm, mục tiêu, định hướng chung về xây dựng và phát triển chương trình giáo dục phổ thông nêu tại Chương trình tổng thể, đặc biệt là quan điểm phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh. Vì vậy, các chủ đề lịch sử có những đặc điểm sau đây:


34


- Tính khoa học

+ Nội dung chủ đề lịch sử được xây dựng trên nền tảng của khoa học lịch sử, đảm bảo tôn trọng sự thật lịch sử, tính chính xác, tính cập nhật, tính đa diện, phong phú của lịch sử; khách quan trong trình bày và diễn giải lịch sử.

+ Chủ đề hướng tới việc hướng dẫn và khuyến khích học sinh tự tìm hiểu, khám phá lịch sử theo những nguyên tắc của khoa học lịch sử, thông qua đó giúp học sinh phát triển tư duy lịch sử và tư duy phản biện.

+ Chủ đề góp phần xây dựng năng lực phân tích, đánh giá các nhân vật, sự kiện, quá trình lịch sử một cách khoa học, giúp học sinh nhận thức được những quy luật, bài học lịch sử và vận dụng vào thực tiễn.

- Tính cơ bản, hệ thống, khái quát

Mỗi chủ đề được xây dựng trên nền tảng tiếp cận những tri thức lịch sử cơ bản ở các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, xã hội, văn hoá, tư tưởng…vv. Đồng thời phản ánh mối liên hệ logic giữa các hợp phần kiến thức (trong mối liên hệ lịch đại và đồng đại, sự tương tác giữa lịch sử Việt Nam với lịch sử khu vực và lịch sử thế giới, mối quan hệ nhân – quả trong lịch sử, sự tiếp nối và thay đổi của tiến trình lịch sử...). Kết thúc chủ đề, chúng ta có thể rút ra được những nét chung, những đặc điểm, tính chất của một vấn đề, một sự kiện, hiện tượng lịch sử.

- Tính nổi bật, trọng tâm

Chủ đề là những vấn đề nổi bật, trọng tâm, cơ bản, cốt yếu của từng giai đoạn, thời kì lịch sử hay là tập hợp hệ thống nội dung các sự kiện, hiện tượng lịch sử có mối liên hệ mật thiết với nhau. Nội dung phản ánh của chủ đề là những vấn đề có tác động, ảnh hưởng đến tiến trình, một giai đoạn, một thời kì nhất định của lịch sử thế giới hay lịch sử dân tộc.

- Tính thực hành, thực tiễn

+ Lịch sử là hiện thực khách quan, là bản thân cuộc sống lao động sản xuất và đấu tranh xã hội. Vì vậy kiến thức lịch sử được hình thành từ thực tiễn và phải đi vào cuộc sống, phục vụ cho lao động sản xuất và đấu tranh cho một xã hội độc lập, tự do, văn minh, tiến bộ.

+ Tính thực hành thể hiện ở cả hai mặt: một là thực hành bộ môn nhằm khôi phục, cụ thể hóa, hình ảnh của quá khứ với các tài liệu, các phương tiện trực quan, phương tiện dạy học hiện đại, các biện pháp sư phạm nội khóa và hoạt động ngoại khóa. Hai là sử dụng kiến thức đã học để tiếp thu kiến thức mới trong cuộc sống thực tiễn.

+ Dạy học theo chủ đề có thể đa dạng hoá các loại hình bài thực hành để học sinh được hoạt động trải nghiệm thông qua các hình thức tổ chức giáo dục như: hoạt động nhóm/cá nhân tự học, học trên lớp/ở bảo tàng, đi thực địa, học qua dự án, di sản,... nhằm mục tiêu phát triển các năng lực chuyên môn của môn Lịch sử.

+ Mang tính thiết thực, phù hợp với khả năng của giáo viên, học sinh và thực


35


tiễn giáo dục ở các vùng miền trong cả nước. Thông qua hệ thống chủ đề và chuyên đề học tập, các hình thức tổ chức giáo dục, chương trình tạo ra độ mềm dẻo, linh hoạt để có thể điều chỉnh phù hợp với các địa phương và với các nhóm đối tượng học sinh khác nhau, song vẫn đảm bảo trình độ chung của giáo dục phổ thông trong cả nước, tương thích với trình độ khu vực và thế giới.

+ Chủ đề đảm bảo cho học sinh giúp học sinh xây dựng năng lực tự học lịch sử suốt đời và khả năng ứng dụng vào cuộc sống những hiểu biết về lịch sử, văn hoá, xã hội thế giới, khu vực và Việt Nam.

- Tính mở, liên thông

+ Nội dung kiến thức của chủ đề có thể kết nối, liên thông với cấu trúc kiến thức, kỹ năng của các môn học khác, như: Địa lí, Ngữ văn, Giáo dục công dân, Giáo dục quốc phòng – an ninh...vv. Trong đó, kiến thức Địa lí, Văn học, Giáo dục công dân, Giáo dục quốc phòng – an ninh góp phần làm cho kiến thức lịch sử thêm sinh động, sáng tỏ, phong phú, hấp dẫn.

2.1.2. Quan niệm tổ chức dạy học các chủ đề lịch sử

* Dạy học theo chủ đề (Themes based learning)

Là hệ thống các phương pháp của người thầy nhằm tổ chức các hoạt động nhận thức và thực hành cho HS, đảm bảo HS lĩnh hội được nội dung học vấn, ở đó hệ thống kiến thức có sự tích hợp, tinh giản, logic thành các chủ đề gắn với yêu cầu thực tiễn, hướng tới mục tiêu hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho HS.

* Tổ chức dạy học theo chủ đề

Là một mô hình mới cho hoạt động lớp học khác với giờ học truyền thống (đặc trưng là những bài học ngắn, những đơn vị kiến thức có tính độc lập) bằng việc chú trọng thiết kế, xây dựng nội dung học tập có tính tổng quát theo chủ đề liên quan đến nội dung kiến thức của môn học. Đồng thời chú trọng vận dụng linh hoạt các hình thức tổ chức, phương pháp dạy học theo tinh thần đổi mới phù hợp với từng chủ đề nhằm hướng đến mục tiêu phát triển năng lực học sinh.

Dạy học theo chủ đề là hình thức tìm tòi những khái niệm, tư tưởng, đơn vị kiến thức, nội dung bài học, chủ đề,… có sự giao thoa, tương đồng lẫn nhau, dựa trên cơ sở các mối liên hệ về lí luận và thực tiễn được đề cập đến trong các môn học hoặc các hợp phần của môn học đó (tức là con đường tích hợp những nội dung từ một số đơn vị, bài học, môn học có liên hệ với nhau) làm thành nội dung học trong một chủ đề có ý nghĩa hơn, thực tế hơn, nhờ đó học sinh có thể tự hoạt động nhiều hơn để tìm ra kiến thức và vận dụng vào thực tiễn.

Dạy học theo chủ đề có sự kết hợp giữa mô hình dạy học truyền thống và hiện đại, ở đó giáo viên không dạy học chỉ bằng cách truyền thụ (xây dựng) kiến thức mà còn hướng dẫn học sinh tự lực tìm kiếm thông tin, sử dụng kiến thức vào giải quyết các nhiệm vụ học tập và các tình huống có ý nghĩa thực tiễn.


Formatted: Font: Times New Roman, 13 pt, Bold, Portuguese (Brazil)


36


Tổ chức dạy học theo chủ đề còn chú trọng tới những hiểu biết, kinh nghiệm, kĩ năng sẵn có của HS trong việc thực hiện các nhiệm vụ học tập nhằm giúp HS lĩnh hội kiến thức một cách tích cực, hứng thú và hiệu quả qua đó phát huy tốt nhất tính tích cực trong hoạt động học tập của học sinh, đồng thời tiếp tục rèn luyện và phát triển năng lực, tiềm năng của người học.

Điểm khác của dạy học theo chủ đề với các bài dạy truyền thống là việc tăng cường tích hợp kiến thức, làm cho kiến thức có mối liên hệ mạng lưới nhiều chiều, làm cho nội dung học tập có ý nghĩa hơn, hấp dẫn hơn. Kết thúc chủ đề học sinh có một tổng thể kiến thức mới, tinh giản, chặt chẽ, khái quát và nâng cao hơn so với nội dung trong sách giáo khoa. Hiểu biết có được sau khi kết thúc chủ đề thường vượt ra ngoài khuôn khổ nội dung cần học do quá trình tìm kiếm, xử lý thông tin ngoài nguồn tài liệu chính thức của học sinh.

Tuy nhiên, dạy học theo chủ đề có điểm tương đồng với các bài dạy truyền thống là vẫn coi trọng việc lĩnh hội kiến thức nền tảng. Vì thế, dạy học theo chủ đề là mô hình dạy học có thể vận dụng vào thực tiễn hiện nay dễ dàng hơn một số mô hình khác. Điều cần làm để có thể vận dụng nó là phải tổ chức lại một số bài học thành một chủ đề được cho là sự tích hợp tốt hơn, có ý nghĩa thực tiễn hơn cách trình bày của sách giáo khoa mà chúng ta đang có.

2.1.3. Thiết kế các chủ đề lịch sử cho HS chuyên Sử theo hướng phát triển năng lực

Để thiết kế các chủ đề lịch sử phù hợp với đối tượng HS chuyên Sử, chúng tôi cần xác định rõ nội hàm của khái niệm năng lực, yêu cầu đối với năng lực lịch sử và đặc điểm nhận thức của HS chuyên. Từ đó, có cơ sở để thiết kế nội dung các chủ đề lịch sử, đáp ứng được yêu cầu nhận thức của HS chuyên.

2.1.3.1. Quan niệm về năng lực

Hiện nay có nhiều quan niệm về năng lực, theo Chương trình giáo dục phổ thông mới năm 2018: Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể.

Môn Lịch sử góp phần hình thành, phát triển phẩm chất chủ yếu và năng lực chung theo các mức độ phù hợp với môn học, cấp học đã được quy định tại Chương trình tổng thể. Trong đó, tập trung vào 3 nhóm năng lực chung, cốt lõi là: Tự chủ và tự học; Giao tiếp và hợp tác; Giải quyết vấn đề và sáng tạo; hình thành và phát triển 5 phẩm chất cốt yếu là: yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm.

Chương trình môn Lịch sử 2018 xác định mục tiêu là: giúp học sinh phát triển năng lực lịch sử, biểu hiện của năng lực khoa học đã được hình thành ở cấp trung học cơ sở; góp phần giáo dục tinh thần dân tộc, lòng yêu nước, các giá trị truyền thống tốt


37


đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại, các phẩm chất, năng lực của người công dân Việt Nam, công dân toàn cầu phù hợp với xu thế phát triển của thời đại; giúp học sinh tiếp cận và nhận thức rõ vai trò, đặc điểm của khoa học lịch sử cũng như sự kết nối giữa sử học với các lĩnh vực khoa học và ngành nghề khác, tạo cơ sở để học sinh định hướng nghề nghiệp trong tương lai.

Chương trình môn Lịch sử giúp học sinh phát triển năng lực lịch sử trên nền tảng kiến thức cơ bản và nâng cao về lịch sử thế giới, khu vực và Việt Nam thông qua hệ thống chủ đề, chuyên đề về lịch sử chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá, văn minh.

Theo Chương trình môn Lịch sử 2018, năng lực lịch sử có các thành phần là: tìm hiểu lịch sử; nhận thức và tư duy lịch sử; vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học.

Các biểu hiện cụ thể của năng lực lịch sử được thể hiện trong bảng sau:

Thành phần

năng lực

Biểu hiện

TÌM HIỂU LỊCH SỬ

- Nhận diện được các loại hình tư liệu lịch sử; hiểu được nội dung, khai thác và sử dụng được tư liệu lịch sử trong quá trình học tập.

- Tái hiện và trình bày được dưới hình thức nói hoặc viết diễn trình của các sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử từ đơn giản đến phức tạp; xác định được các sự kiện lịch sử trong không gian và thời gian cụ

thể.


NHẬN THỨC VÀ TƯ DUY LỊCH SỬ

- Giải thích được nguồn gốc, sự vận động của các sự kiện lịch sử từ đơn giản đến phức tạp; chỉ ra được quá trình phát triển của lịch sử theo lịch đại và đồng đại; so sánh sự tương đồng và khác biệt giữa các sự kiện lịch sử, lí giải được mối quan hệ nhân quả trong tiến trình lịch sử.

- Đưa ra được những ý kiến nhận xét, đánh giá của cá nhân về các sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử trên cơ sở nhận thức và tư duy lịch sử; hiểu được sự tiếp nối và thay đổi của lịch sử; biết suy nghĩ theo những chiều hướng khác nhau khi xem xét, đánh giá, hay đi tìm

câu trả lời về một sự kiện, nhân vật, quá trình lịch sử.

VẬN DỤNG KIẾN THỨC, KĨ NĂNG

ĐÃ HỌC

- Rút ra được bài học lịch sử và vận dụng được kiến thức lịch sử để lí giải những vấn đề của thực tiễn cuộc sống; trên nền tảng đó, có khả năng tự tìm hiểu những vấn đề lịch sử, phát triển năng lực sáng tạo, có khả năng tiếp cận và xử lí thông tin từ những nguồn khác

nhau, có ý thức và năng lực tự học lịch sử suốt đời.


Việc xác định cụ thể những biểu hiện của các thành phần năng lực nói trên là cơ sở giúp chúng tôi thiết kế nội dung chủ đề, lựa chọn các hình thức, phương pháp dạy


38


học chủ đề và xây dựng câu hỏi kiểm tra đánh giá cho phù hợp với đối tượng HS chuyên Sử trên địa bàn thành phố Hà Nội.

2.1.3.2. Đặc điểm của đối tượng HS chuyên Sử

Theo khoản 1 điều 2 trong Quy chế trường chuyên (5/2014) có nêu: Mục tiêu của trường chuyên là phát hiện những học sinh có tư chất thông minh, đạt kết quả xuất sắc trong học tập và phát triển năng khiếu của các em về một số môn học trên cơ sở đảm bảo giáo dục phổ thông toàn diện; giáo dục các em thành người có lòng yêu nước, tinh thần vượt khó, tự hào, tự tôn dân tộc; có khả năng tự học, nghiên cứu khoa học và sáng tạo; có sức khỏe tốt để tiếp tục đào tạo thành nhân tài đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.

Khi đỗ vào trường chuyên, các em đã bước đầu khẳng định được năng lực học tập nhất định của bản thân ở một bộ môn khoa học nào đó. Đối với HS chuyên Sử, có thiên hướng theo nhóm môn khoa học xã hội, đặc biệt là bộ môn Lịch sử. Qua nghiên cứu lí thuyết và từ thực tiễn dạy học các lớp chuyên Sử ở thành phố Hà Nội, chúng tôi nhận thấy, HS chuyên Sử trên phạm vi cả nước nói chung và Hà Nội nói riêng thường có những đặc điểm nổi bật sau đây:

- Có khả năng (năng khiếu) nhất định với việc học tập bộ môn Lịch sử.

Theo Từ điển Tâm lý học (Vũ Dũng chủ biên): năng khiếu là tập hợp những tư chất bẩm sinh, nét đặc trưng và tính chất đặc thù làm tiền đề cho năng lực. Theo “Khơi dậy tiềm năng sáng tạo” (tác giả Nguyễn Cảnh Toàn) thì năng khiếu là năng lực còn tiềm tàng về một hoạt động nào đó nhưng chưa bộc lộ ở thành tích cao vì chưa qua tập dượt, rèn luyện nên còn thiếu hiểu biết và chưa thành thạo trong lĩnh vực hoạt động đó. Theo Tâm lý học nhân cách (Nguyễn Ngọc Bích): Năng khiếu là những tiền đề bẩm sinh, những khuynh hướng đầu tiên tạo điều kiện cho năng lực và tài năng phát sinh. Nó bao gồm những đặc điểm tâm sinh lý giải phẫu của hệ thống thần kinh và khuynh hướng tâm lý đầu tiên tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển một năng lực nào đó. Năng khiếu tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành năng lực và tài năng.

Tóm lại, năng khiếu : Là mầm mống của tài năng tương lai. Nếu được phát hiện bồi dưỡng kịp thời có phương pháp và hệ thống thì năng khiếu được phát triển và đạt tới đỉnh cao của năng lực. Trong quá trình học tập của HS, năng khiếu được thể hiện ở những khía cạnh sau đây:

+ Thông tuệ, có các biểu hiện chính: nhận thức, tiếp thu vấn đề nhanh, nhớ lâu, có phản xạ nhanh, có óc tư duy lôgic, biết suy diễn, phân tích, quy nạp, biết khái quát hóa, trừu tượng hóa...

+ Sáng tạo, với những biểu hiện chính là có khả năng tư duy độc lập và tư duy phê phán, không thích nói và làm theo lối mòn quen thuộc, luôn muốn tìm ra quy luật, bản chất của vấn đề, có khả năng tìm ra những phương án tối ưu, độc đáo, mới lạ để giải quyết vấn đề.


39


- Năng khiếu còn được thể hiện ở một số phẩm chất nổi bật như: tinh thần học tập nghiêm túc, đam mê, thái độ tích cực, chủ động, luôn nỗ lực, tự mình lao động trí óc (quan sát, phân tích, so sánh, tổng hợp) để chiếm lĩnh kiến thức. Trong quá trình học tập biết đặt ra những vấn đề mà mình cần khám phá, tìm hiểu, biết phát huy trí tuệ, ham muốn hiểu biết, học hỏi, tự học, tự tìm tòi; đồng thời biết suy nghĩ vận dụng kiến thức đã học để hiểu biết kiến thức mới; trung thực, khách quan, có chí tiến thủ, không ngại khó khăn, kiên trì, nhẫn nại, có tinh thần hợp tác, tinh thần đồng đội, say mê khoa học, biết đặt mục tiêu học tập cho bản thân và luôn có ý chí vươn lên để tự hoàn thiện mình.

- Bên cạnh đó, HS chuyên còn có khả năng tự học – đây là một đặc điểm quan trọng, bởi nó là nhân tố nội lực quyết định chất lượng học tập, còn hoạt động dạy chỉ là nhân tố ngoại lực, có tác dụng định hướng, kích thích, điều khiển và chỉ đạo trực tiếp hoặc gián tiếp quá trình học. Quá trình học chỉ có kết quả khi HS biết tự nỗ lực, tự học để nắm vững tri thức, biến tri thức thành của bản thân mình. Trên cơ sở đó, tự bồi dưỡng phẩm chất, đạo đức, rèn luyện các kĩ năng và phát triển những năng lực tiềm ẩn ở bản thân.

Việc tự học của học sinh chuyên có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển trí tuệ và nhân cách của các em. Trí tuệ của học sinh chuyên được phát triển trong quá trình tự học của các em bởi lẽ khi tự học các em luôn luôn phải động não, tìm tòi. Các thao tác tư duy như so sánh, phân tích, tổng hợp, suy luận logic… thường xuyên được sử dụng sẽ mài sắc trí tuệ của các em. Tư duy độc lập của học sinh cũng được phát triển trong quá trình tự học. Đồng thời, thông qua tự học mà góp phần không nhỏ tới sự hình thành, phát triển nhân cách của cá nhân. Đức tính kiên trì, bền bỉ, biết theo đuổi mục đích đến cùng; dám đương đầu với những khó khăn, thử thách trong học tập; sự trung thực, say mê trong học tập cũng là những phẩm chất nhân cách nổi bật của học sinh chuyên.

2.1.3.3. Thiết kế các chủ đề lịch sử cho HS chuyên Sử theo hướng phát triển năng lực

Thiết kế các chủ đề lịch sử cho HS chuyên Sử theo hướng phát triển năng lực là sự đổi mới trong việc xây dựng nội dung học tập cho đối tượng HS chuyên. Trên cơ sở mục tiêu, nội dung chương trình, đặc điểm đối tượng HS, GV thiết kế nội dung học tập thành các chủ đề. Nội dung học tập đó được thiết kế nhằm hướng đến hình thành và phát triển các phẩm chất công dân (yêu nước, nhân ái, chăm chỉ, trung thực, trách nhiệm), năng lực chung (tự chủ và tự học; giao tiếp và hợp tác; giải quyết vấn đề và sáng tạo) và năng lực đặc thù của bộ môn với các thành phần năng lực: tìm hiểu lịch sử; nhận thức và tư duy lịch sử; vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học.

Tuy nhiên, do đặc thù là HS chuyên, nên mục tiêu về năng lực đòi hỏi là cao hơn các đối tượng HS khác (HS cấp THCS và HS cấp THPT học theo chương trình

Xem tất cả 169 trang.

Ngày đăng: 20/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí