Đặc Điểm Của Thị Trường Du Lịch Trong Hội Nhập Quốc Tế


du khách’’ [34, tr.6]. Với cách tiếp cận này, khách du lịch là nhân vật trung tâm làm nảy sinh các hoạt động và các mối quan hệ trên cơ sở đó thỏa mãn mục đích của các chủ thể tham gia vào các hoạt động và các mối quan hệ đó. Khi du lịch đã trở nên phổ biến, trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống của con người, người ta coi du lịch như một hiện tượng xã hội làm nâng cao giá trị cuộc sống và nhận thức của con người. Theo Luật Du lịch Việt Nam có hiệu lực từ ngày 1/1/2006 “Du lịch là hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [42, tr.8].

Như vậy, có khá nhiều khái niệm về du lịch, tùy vào cách tiếp cận của chủ thể trong quá trình nghiên cứu. Tuy vậy, du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù, trên góc độ kinh tế chính tri học, du lịch được coi là hoạt động kinh tế gồm nhiều thành phần tham gia, tạo thành một tổng thể hết sức phức tạp, với những lợi ích không chỉ đơn thuần giữa khách du lịch với người KD du lịch mà còn có cả là lợi ích của chính quyền địa phương, cộng đồng dân cư. Từ các góc độ tiếp cận khác nhau, theo tác giả: Du lịch là phạm trù phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người trong chuyến đi ngoài nơi cư trú thường xuyên, trong việc tiêu dùng các hàng hóa, dịch vụ du lịch nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của khách du lịch và mục đích của người kinh doanh. Chủ thể của những chuyến du lịch là những du khách hay là khách du lịch. Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến [42, tr.8].

Rõ ràng khi lực lượng sản xuất chưa phát triển thì nhu cầu du lịch của dân cư chủ yếu được thực hiện một cách đơn lẻ do các cá nhân và tập thể đứng ra tổ chức hoàn toàn tự phát. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thu nhập của con người tăng lên, trình độ nhận thức của con người ngày càng cao, thời gian nhàn rỗi của con người ngày càng nhiều, đồng thời con người làm việc trong những điều kiện căng thẳng hơn, ngoài những nhu cầu về ăn, uống, ở, mặc thường ngày con người phát sinh ra nhiều nhu cầu mới như tham quan, nghỉ dưỡng sức, thưởng ngoạn... Những nhu cầu này ngày càng phổ biến và có vị trí quan trọng trong cấu trúc nhu cầu của đời sống xã hội. Điều đó cho thấy khi nhu cầu du lịch ngày càng tăng, số lượng người đi du lịch ngày càng nhiều phải có một bộ phận phân công lao động xã hội đứng ra tổ chức với quy mô và tính chuyên nghiệp ngày càng cao trong việc tổ chức sản xuất các hàng hóa và dịch vụ phục vụ nhu cầu du lịch của xã hội.


Từ đây, những người có cầu và có cung du lịch gặp nhau, tác động qua lại lẫn nhau để thực hiện các quan hệ mua bán trao đổi. Quan hệ này ngày càng phổ biến hơn, theo đó TTDL được hình thành và phát triển. So với các thị trường khác, TTDL xuất hiện muộn hơn, song cũng như các loại thị trường khác, không thể chỉ nói đến cung hoặc cầu một cách riêng biệt, mà cùng lúc phải có cả hai thành phần thị trường nói trên cũng như các mối quan hệ giữa chúng. Về bản chất, TTDL được coi là bộ phận cấu thành tương đối đặc biệt của thị trường hàng hóa nói chung. Nó bao gồm các mối quan hệ và cơ chế kinh tế liên quan đến địa điểm, thời gian, điều kiện và phạm vi thực hiện các dịch vụ, hàng hóa nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội về du lịch. Các mối quan hệ và cơ chế kinh tế này được hình thành trên cơ sở các quy luật kinh tế của nền sản xuất hàng hóa và các quy luật kinh tế đặc trưng cho từng hình thái KT-XH. Theo đó, “Thị trường du lịch là phạm trù phản ánh toàn bộ quan hệ trao đổi, mua bán hàng hóa và dịch vụ giữa khách du lịch và người KD dưới sự tác động của cơ chế và các quy luật thị trường’’ [28, tr.15]. Tác giả Nguyễn Văn Lưu cho rằng: “Thị trường du lịch là một bộ phận của thị trường chung, một phạm trù của sản xuất và lưu thông hàng hóa, dịch vụ du lịch, phản ánh toàn bộ quan hệ trao đổi giữa người mua và người bán, giữa cung và cầu và toàn bộ các mối quan hệ, thông tin kinh tế, kỹ thuật gắn với mối quan hệ đó trong lĩnh vực du lịch” [30, tr.23]. Tác giả luận án thống nhất với quan niệm TTDL của tác giả Nguyễn Văn Lưu, bởi theo cách quan niệm này đã phản ánh được những khía cạnh sau:

Thứ nhất, TTDL là một bộ phận cấu thành của thị trường hàng hóa, do vậy TTDL cũng chịu sự chi phối của các quy luật giá trị, quy luật cung-cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật giá cả...

Thứ hai, TTDL là nơi thực hiện dịch vụ, hàng hóa nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội về du lịch. Vì vậy, nó độc lập tương đối so với thị trường hàng hóa, nếu thị trường hàng hóa thông thường thực hiện hàng hóa mang tính chất cụ thể thì TTDL thực hiện các sản phẩm du lịch phần lớn là mang tính phi vật chất.

Thứ ba, toàn bộ các mối quan hệ và thông tin kinh tế, kỹ thuật trên TTDL đều phải được liên hệ với vị trí, thời gian, điều kiện phạm vi của việc thực hiện hàng hóa, dịch vụ. Điều này cho thấy, để bán được một sản phẩm du lịch cần phải xác định được cơ chế kinh tế với một địa điểm cụ thể, cho một thời gian xác định với các điều kiện đối tượng khách hàng rõ ràng.

Hội nhập quốc tế là một xu thế khách quan bởi sự phát triển của lực lượng sản xuất. Cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, hội nhập quốc tế đã diễn ra

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 194 trang tài liệu này.


và cuốn hút ngày càng nhiều nước tham gia. Theo đó, hội nhập quốc tế được hiểu là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết giữa các quốc gia với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Trong xu thế này, hội nhập kinh tế quốc tế là sự thể hiện rõ nét và phổ biến nhất.

Thị trường du lịch thành phố Đà Nẵng trong hội nhập quốc tế - 4

Sự phát triển của du lịch với tư cách là một ngành kinh tế không nằm ngoài quy luật khách quan đó. Khi lực lượng sản xuất phát triển cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, thị trường tài chính, thị trường bất động sản và các phương tiện vận chuyển ngày càng hiện đại thì nhu cầu du lịch để thưởng ngoạn vẻ đẹp, những điều mới lạ ở nước ngoài ngày càng trở nên phổ biến. Khi cầu về du lịch xuất hiện tất yếu phải có cung, vì thế hoạt động của các tổ chức cung ứng dịch vụ du lịch theo đó được mở rộng hơn. Trước đây, các tổ chức cung ứng dịch vụ du lịch chỉ hoạt động KD trong phạm vi một nước, nay hoạt động này đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia để tiến hành KD trên TTDL quốc tế. Các công ty lữ hành, du lịch xuyên quốc gia cũng hình thành ở nhiều nước trên thế giới. Như vậy, “hội nhập quốc tế” không chỉ được xem là xu thế mà đó chính là một trong những nguyên nhân thúc đẩy TTDL phát triển. Khi sự mở rộng của quan hệ cung-cầu về du lịch vượt ra khỏi biên giới lãnh thổ tất yếu sẽ xuất hiện TTDL quốc tế. Hội nhập TTDL là một yêu cầu khách quan trong quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, của tiến bộ khoa học và công nghệ, của đời sống vật chất và văn hóa ngày càng tăng của các địa phương, quốc gia và khu vực. Trong quá trình hội nhập, các chủ thể KD du lịch tham gia cạnh tranh quốc tế vừa có cơ hội để mở rộng TTDL, phát triển các tuyến du lịch và sản phẩm du lịch liên kết với quy mô lãnh thổ lớn hơn…Tuy nhiên, bên cạnh đó việc hội nhập cũng tạo ra những thách thức không nhỏ, trước hết là thách thức về năng lực cạnh tranh. TTDL quốc gia luôn đặt trong quan hệ gia tăng của hội nhập quốc tế.

Dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị, tác giả luận án cho rằng, Thị trường du lịch trong hội nhập quốc tế là sự phản ánh mối quan hệ trao đổi, mua, bán hàng hóa và dịch vụ du lịch dựa trên lợi thế so sánh của mỗi quốc gia và dưới sự tác động của các quy luật kinh tế khách quan, có sự kiểm soát của nhà nước ở từng quốc gia tham gia hội nhập.


2.1.1.2. Đặc điểm của thị trường du lịch trong hội nhập quốc tế

Trong bối cảnh các quốc gia đều tham gia vào quá trình hội nhập, sự phát triển của TTDL cũng phải đặt trong mối quan hệ quốc tế. Tức là sự phát triển của TTDL không chỉ bị chi phối bởi các yếu tố trong nước, mà nó còn bị chi phối bởi các yếu tố quốc tế. TTDL trong hội nhập quốc tế được thể hiện ở những đặc điểm sau:

Một là, các chủ thể tham gia vào TTDL trong hội nhập quốc tế không chỉ trong nước mà còn có sự tham gia của nước ngoài, do vậy, tất yếu sẽ phải tham gia vào môi trường cạnh tranh quốc tế.

Khách du lịch bao gồm cả người dân trong nước và cả những du khách quốc tế. Khi tham gia thị trường này, các đơn vị cung ứng dịch vụ du lịch không chỉ có các công ty KD dịch vụ du lịch trong nước mà còn có cả các công ty KD dịch vụ du lịch nước ngoài. Việc mở cửa hội nhập tạo ra những cơ hội rộng lớn cho các du khách và các công ty KD dịch vụ du lịch tìm kiếm thị trường mới. Nhưng đồng thời trong sân chơi này, các công ty KD dịch vụ du lịch cũng sẽ phải tham gia vào một thị trường cạnh tranh gay gắt quyết liệt và tiềm ẩn nhiều nhân tố rủi ro.

Khi TTDL hội nhập quốc tế, giá cả của sản phẩm du lịch không thể bó hẹp trong phạm vi một quốc gia mà tất yếu phải là giá cả quốc tế. Do đó, các quy luật chi phối hoạt động kinh tế của các chủ thể tham gia cạnh tranh trong thị trường này không chỉ là các quy luật kinh tế trong nước mà còn chịu sự điều tiết, chi phối bởi các quy luật kinh tế nảy sinh trong quan hệ quốc tế. Chính môi trường cạnh tranh quốc tế này buộc các công ty KD dịch vụ du lịch của một quốc gia không thể duy trì độc quyền trong việc quyết định giá cả và sản lượng dịch vụ. Giá cả và sản lượng dịch vụ du lịch được quyết định bởi quan hệ cung cầu trên TTDL trên phạm vi quốc tế.

Hai là, TTDL trong hội nhập quốc tế phản ánh mối quan hệ trao đổi, mua, bán hàng hóa và dịch vụ du lịch giữa cung và cầu dựa trên lợi thế so sánh của mỗi quốc gia vì thế cần phải có sự kiểm soát của nhà nước ở từng quốc gia tham gia hội nhập. Khi các chủ thể tham gia trên thị trường này đều có lợi ích và tự nguyện trên nguyên tắc thuận mua vừa bán, nên các quan hệ giao dịch trên TTDL trong hội nhập quốc tế là bình đẳng. Nếu chính sách của nhà nước đưa ra nhằm phân biệt đối xử, bất bình đẳng đối với các chủ thể KD dịch vụ du lịch cũng như du khách đến từ các nước khác nhau sẽ không kích thích sự phát triển của TTDL. Vì thế, việc tham gia hội nhập cũng đồng nghĩa với việc các quốc gia phải chấp nhận “luật chơi” chung. Chính sách của các quốc gia sẽ phải từng bước điều chỉnh sao cho vừa đảm bảo


phát huy được lợi thế của đất nước, đồng thời phải phù hợp với các thông lệ quốc tế mà Việt Nam cam kết thực hiện khi tham gia.

Ba là, TTDL trong hội nhập quốc tế có tính liên kết cao. Xuất phát từ đặc điểm du lịch là ngành kinh tế “liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao”, sự phát triển du lịch không thể bó hẹp trong một lãnh thổ “khép kín” mà luôn vươn ra khỏi phạm vi hành chính một địa phương, một quốc gia, một khu vực. Trên TTDL, sản phẩm du lịch là yếu tố quan trọng để thu hút du khách. Việc xây dựng sản phẩm du lịch dựa trên các yếu tố cảnh quan thiên nhiên, giá trị văn hóa, lịch sử, nhân văn đặc thù của mỗi vùng, miền. Nhưng muốn có những sản phẩm du lịch tốt, sự liên kết của các DN với các đơn vị KD du lịch tại điểm đến là không thể thiếu. Hoặc để kích cầu du lịch, các DNKD du lịch phải phối hợp chặt chẽ với các hãng hàng không, cơ sở lưu trú, đơn vị vận chuyển, điểm ẩm thực. Khi hội nhập tính liên kết này được mở rộng ra trên phạm vi khu vực và thế giới. Hơn nữa, trong điều kiện hội nhập, nhu cầu của du khách không chỉ đối với một sản phẩm này hay một địa điểm này mà có thể nhiều sản phẩm, ở những địa điểm khác nhau. Cũng nhờ sự liên kết mà TTDL của các nước không ngừng mở rộng, giảm chi phí đầu tư, nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất KD…, đồng thời thông qua sự liên kết này một quốc gia có thể xây dựng và quảng bá hình ảnh đất nước trên toàn thế giới.

2.1.2. Các loại hình thị trường du lịch trong hội nhập quốc tế

Để có cơ sở nhận thức về vai trò, đặc điểm của từng loại, giúp cho việc nghiên cứu, phân tích TTDL và xây dựng chiến lược thị trường chính xác, phù hợp, việc phân loại TTDL hết sức cần thiết và quan trọng.

Một là, căn cứ vào quan hệ cung cầu, chia TTDL thành hai loại, TTDL bên bán và bên mua. Thị trường bên bán là TTDL mà ở đó bên bán ở vào vị trí chi phối còn người mua ở vào vị trí bị chi phối. Điều đó có nghĩa trên thị trường này cầu lớn hơn cung, người bán không thể đáp ứng nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ du lịch. Người mua không có hoặc có rất ít cơ hội lựa chọn hàng hóa, dịch vụ du lịch. Vì vậy, các đơn vị KD du lịch cần đầu tư nhằm tạo ra các hàng hóa, dịch vụ du lịch chất lượng, giá cả hợp lý đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách trong và ngoài nước. Thị trường bên mua là thị trường mà ở đó cung lớn hơn cầu, trên thị trường này mọi nhu cầu về hàng hóa, dịch vụ du lịch trong nước và quốc tế đều được đáp ứng một cách đầy đủ. Trên thị trường này sự cạnh tranh gay gắt hơn nên các DNKD du lịch không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và hàng hóa du lịch, phương tiện phục vụ nhằm thu hút khách du lịch.


Hai là, căn cứ theo đặc điểm không gian của cung và cầu, chia TTDL thành thị trường gửi khách và thị trường nhận khách. Trong một địa phương, một đất nước có thể vừa là thị trường gửi khách vừa là thị trường nhận khách.

Thị trường gửi khách là thị trường mà tại đó xuất hiện nhu cầu du lịch. Khách du lịch xuất phát từ đó để đi đến nơi khác tiêu dùng các sản phẩm du lịch. Thị trường gửi khách chia thành thị trường gửi khách trực tiếp và thị trường gửi khách trung gian. Thị trường gửi khách trực tiếp ở chừng mực nào đó có thể coi chính là nơi cư trú hàng ngày của khách. Còn thị trường gửi khách trung gian là nơi chuyển tiếp, khách đến nơi này du lịch rồi đi tiếp. Ví dụ khi công dân Nhật Bản sang Việt Nam du lịch thì Nhật Bản là thị trường gửi khách trực tiếp của Việt Nam. Khi công dân nước thứ ba sang Nhật Bản du lịch sau đó đi tiếp sang Việt Nam, thì Nhật Bản là thị trường gửi khách trung gian của Việt Nam. Trong hội nhập quốc tế, với sự cố gắng cải cách hành chính, thủ tục xuất nhập cảnh của các quốc gia đã tạo điều kiện cho thị trường gửi khách trung gian ngày càng phát triển.

Thị trường nhận khách là thị trường mà tại đó đã có cung du lịch, nơi có điều kiện sẵn sàng cung ứng các dịch vụ tiêu dùng sản phẩm du lịch, đáp ứng nhu cầu du lịch của khách du lịch không chỉ trong nước mà cả khách du lịch nước ngoài. Loại thị trường này có ý nghĩa quan trọng đối với việc tổ chức du lịch quốc tế của một địa phương hay một quốc gia hoặc tổ chức du lịch gửi khách của một địa phương, một quốc gia sang một quốc gia khác; Đồng thời cung cấp thông tin cần thiết về đối thủ cạnh tranh trong du lịch quốc tế của một nước, hoặc trong việc tổ chức đón khách du lịch của một địa phương, một quốc gia.

Ba là, căn cứ theo thời gian, có TTDL quanh năm và TTDL thời vụ. TTDL quanh năm là thị trường mà ở đó hoạt động du lịch không bị gián đoạn, việc mua và bán các sản phẩm du lịch diễn ra quanh năm; TTDL thời vụ là loại thị trường mà ở đó hoạt động du lịch bị giới hạn theo mùa. Cung và cầu chỉ xuất hiện trong thời gian nhất định trong năm. Tính chất thời vụ của TTDL đòi hỏi các cơ sở KD du lịch trong thời kỳ hội nhập phải giải quyết sự chênh lệch giữa cung cầu ở mức thấp nhất vào mùa cao điểm, giải quyết mọi vấn đề về lao động, doanh thu, sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất vào mùa thấp điểm.

Bốn là, căn cứ vào động cơ và mục đích của chuyến đi của khách du lịch, có thể chia TTDL chia thành các loại sau: du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, du lịch thể thao, MICE, du lịch sức khỏe, du lịch tâm linh, du lịch dân tộc....


Khi quan hệ quốc tế ngày càng mở rộng, các quốc gia tham gia ngày càng sâu vào quá trình này, thì TTDL theo đó cũng được mở rộng ra với những loại hình mới đó là TTDL nội địa và TTDL quốc tế. TTDL nội địa là thì trường mà ở đó cung và cầu du lịch đều nằm trong biên giới lãnh thổ của một quốc gia. TTDL quốc tế là thị trường mà ở đó cung thuộc một quốc gia, còn cầu thuộc một quốc gia khác. Trên TTDL quốc tế, các công ty du lịch của một quốc gia kết hợp với một công ty nước khác nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch của các công dân nước ngoài trên nguyên tắc có lợi cho các bên tham gia hoạt động này.

2.2. YẾU TỐ CẤU THÀNH THỊ TRƯỜNG DU LỊCH, CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG THỊ TRƯỜNG DU LỊCH TRONG HỘI NHẬP QUỐC TẾ

2.2.1. Các yếu tố cấu thành thị trường du lịch trong hội nhập quốc tế

Thị trường du lịch trong hội nhập quốc tế bao gồm các yếu tố cầu, cung, hàng hóa, dịch vụ du lịch, các chủ thể kinh tế tham gia trên TTDL và cơ chế giá cả, cạnh tranh trên TTDL.

2.2.1.1. Cầu trên thị trường du lịch trong hội nhập quốc tế

Trong cuộc sống, con người luôn có những mong muốn và nguyện vọng, dưới góc độ khoa học kinh tế chính trị học, những mong muốn và nguyện vọng của con người thường gọi là nhu cầu. Theo đó, cầu là khối lượng hàng hóa và dịch vụ mà người tiêu dùng sẵn sàng mua trong một thời kỳ tương ứng với giá cả, thu nhập và các biến số kinh tế xác định.

Cùng với sự phát triển của xã hội, bên cạnh những nhu cầu thiết yếu như ăn uống, ở, mặc, đi lại, học hành và làm việc, các nhu cầu khác về thẩm mỹ, hiểu biết cũng được hình thành và phát triển. Theo tiến sĩ Abaham Maslow trong bài “Lý thuyết về động lực của con người’’ đăng trên “Tạp chí Tâm sinh lý học của con người’’ năm 1943 đã đưa ra mô hình khái quát các nhu cầu con người xếp theo thứ bậc như sau [Mô hình 2.1- Phụ lục 1]: Nhu cầu sinh lý (Physiological needs)- nhu cầu về thức ăn, nước uống, ngũ, nghĩ ngơi; Nhu cầu về an toàn, an ninh cho tính mạng (Safety, security, freedom from fear and anxiety); Nhu cầu về hòa nhập và tình yêu (Belonging and love- effection, giving and receiving love); Nhu cầu tự tôn trọng và được tôn trọng (Self-esteem and esteem from others); Nhu cầu tự hoàn thiện (Self-actualization- personal growth, self-fulfilment). Sau đó, do sự phát triển không ngừng của xã hội nhu cầu con người ngày càng trở nên phong phú hơn, đa


dạng hơn và thang cấp bậc nhu cầu của con người cũng được bổ sung thêm cho phù hợp đó là: Nhu cầu về thẩm mỹ, cảm nhận cái đẹp (Aesthentics, appreciation of beauty) và Nhu cầu hiểu biết (Knowledge and understanding) [25, tr.61-62].

Như vậy, con người luôn có xu hướng muốn thỏa mãn những nhu cầu ở thứ bậc cao hơn như nhu cầu về thẩm mỹ, cảm nhận cái đẹp và nhu cầu hiểu sau khi đã thỏa mãn được những nhu cầu thường ngày như ăn uống, ở, mặc, đi lại, học hành và làm việc, nhu cầu an toàn, tình yêu... Điều đó có nghĩa nhu cầu du lịch lịch là nhu cầu đặc biệt, thứ cấp và tổng hợp của con người. Đặc biệt là do nó khác với nhu cầu thường ngày của con người, khi đi du lịch con người thường chi tiêu nhiều hơn cho việc thỏa mãn nhu cầu của mình. Thứ cấp vì con người chỉ có thể nghĩ tới du lịch khi đã thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu, tối thiểu hàng ngày. Tổng hợp là vì trong một chuyến hành trình du lịch thường con người đòi hỏi phải thỏa mãn nhiều nhu cầu khác nhau, về nhiều loại hàng hóa dịch vụ khác nhau trong một khoảng thời gian nhất định. Hơn nữa khi đi du lịch con người thường rời nơi ở thường xuyên của mình để đến với điểm du lịch đã chọn nhằm thỏa mãn nhu cầu vui chơi, giải trí, thưởng thức cái đẹp, phục hồi sức khỏe, giải phóng khỏi tiếng ồn, ô nhiễm môi trường, căng thẳng mệt mỏi, nâng cao đời sống tinh thần, nâng cao hiểu biết xã hội. Nên cầu du lịch được hình thành và phát triển trên nền tảng của nhu cầu sinh lý (sự đi lại...) và các nhu cầu tinh thần (nhu cầu nghĩ ngơi, tự khẳng định, nhận thức, giao tiếp, hiểu biết...). Tuy nhiên, để thực hiện được cầu du lịch, con người phải có điều kiện về kinh tế, tức phải có khả năng thanh toán về các hàng hóa và dịch vụ du lịch.

Như vậy, Cầu du lịch là một bộ phận nhu cầu của xã hội có khả năng thanh toán về dịch vụ, hàng hóa du lịch, đảm bảo sự đi lại, lưu trú tạm thời của con người ngoài nơi ở thường xuyên của họ, nhằm mục đích nghỉ ngơi, giải trí, tìm hiểu văn hóa, chữa bệnh, tham gia vào các chương trình đặc biệt và các mục đích khác của khách du lịch [62, tr.55].

Du lịch là hoạt động giúp con người thỏa mãn những nhu cầu đó. Khi trình độ phát triển của sản xuất hàng hóa và tri thức của con người tăng lên, đặc biệt trong điều kiện toàn cầu hóa giúp con người có thể tham gia các chuyến đi du lịch dài ngày, không chỉ trong nước mà còn ra các nước trên thế giới. Đặc biệt hơn, cùng với sự phát triển về kinh tế, thu nhập, tri thức con người cũng tăng lên tương ứng, khi đó nhu cầu du lịch trở thành thói quen không thể thiếu trong cuộc sống. Cầu du lịch được thỏa mãn trong điều kiện nền kinh tế thị trường hội nhập quốc tế ngày

Xem tất cả 194 trang.

Ngày đăng: 16/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí