khoản cho vay được các ngân hàng thương mại trên địa bàn cho vay nhiều nhất, chủ yếu là cho vay: xây dựng khách sạn, cáp treo, phương tiện vận chuyển…
Cho vay dài hạn: Theo qui định hiện hành của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, thì thời hạn cho vay dài hạn có thời hạn từ trên 60 tháng, khoản vay này chiếm tỷ lệ nhỏ trong cơ cấu của ngân hàng thương mại trên địa bàn, chủ yếu là cho vay nhận chuyển nhượng giá trị quyền sử dụng đất.
Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng: Theo căn cứ này, hình thức cấp tín dụng đối với ngành du lịch được chia ra làm 2 loại.
- Cho vay không có tài sản đảm bảo: hình thức cấp tín dụng này được thực hiện trên cơ sở uy tín của khách hàng mà không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ 3, trên thực tế tại địa bàn Lâm Đồng có rất ít hình thức cấp tín dụng này, chủ yếu là cho vay tiêu dùng, số tiền cho vay ít.
- Cho vay có đảm bảo bằng tài sản: là hình thức cấp tín dụng dựa trên cơ sở là đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ 3, loại hình cấp tín dụng này được các ngân hàng trên địa bàn áp dụng phổ biến.
* Về phương thức cho vay đối với ngành du lịch trong thời gian qua: thời gian qua, các ngân hàng thương mại trên địa bàn thường áp dụng phương thức cho vay đối với các tổ chức, cá nhân kinh doanh trong lĩnh vực du lịch, cụ thể:
Phương thức cho vay từng lần: là phương thức cho vay mà mỗi lần vay vốn, khách hàng vay và ngân hàng lập đầy đủ các thủ tục vay vốn cần thiết theo qui định của ngân hàng và ký kết hợp đồng tín dụng. Phương thức cho vay này được áp dụng phổ biến đối với các khách hàng ngành du lịch, phương thức cho vay này có nhược điểm là mỗi lần vay vốn các tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành du lịch phải lập đầy đủ các thủ tục hồ sơ theo qui định và ngân hàng cũng phải đi thẩm định lại các yếu tố cần thiết theo qui định của khách hàng vay, điều đó làm mất thời gian, công sức, cũng như cơ hội kinh doanh của cả ngân hàng và khách hàng.
Phương thức cho vay theo dự án đầu tư: theo đó phương thức này áp dụng cho các tổ chức, cá nhân kinh doanh ngành du lịch vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Các ngân hàng thương mại cùng khách hàng ký hợp đồng tín dụng và thoả thuận mức vốn đầu tư duy trì cho cả thời gian đầu tư của dự án và phân định thời gian hoàn trả vốn vay cho từng kỳ, ngân hàng tiến hành giải ngân theo tiến độ thực hiện dự án. Mỗi lần rút vốn vay, khách hàng lập giấy nhận nợ tiền vay trong phạm vi mức vốn vay đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng, kèm theo các chứng từ có liên quan để chứng minh mục đích sử dụng vốn vay.
Có thể bạn quan tâm!
- Nguồn Vốn Huy Động Phân Theo Loại Tiền Tệ Của Các Nhtm Tỉnh Lâm Đồng.
- Dư Nợ Cho Vay Ngành Du Lịch Tỉnh Lâm Đồng Của Các Nhtm
- Tỷ Trọng Cho Vay Ngành Du Lịch Năm 2010 Của Các Nhtm Tỉnh Lâm Đồ Ng
- Quan Điểm Phát Triển Du Lịch Trên Địa Bàn Tỉnh Lâm Đồng
- Những Giải Pháp Chủ Yếu Vế Tín Dụng Ngân Hàng
- Tăng Cường Công Tác Huy Động Vốn, Đặc Biệt Là Nguồn Vốn Trung, Dài Hạn
Xem toàn bộ 241 trang tài liệu này.
Phương thức cho vay trả góp: theo đó ngân hàng và khách hàng vay thoả thuận số tiền vay, số lãi phải trả cộng vào số tiền gốc rồi chia ra trả nợ cho nhiều kỳ hạn trong suốt thời gian vay vốn; hợp đồng tín dụng ghi rõ các kỳ hạn trả nợ, số tiền phải trả ở mỗi kỳ hạn. Đối tượng khách hàng vay theo phương thức này có phương án khả thi, nguồn trả nợ bằng các khoản thu nhập ổn định.
Đối với những phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay đồng tài trợ, dự án đầu tư…có rất nhiều ưu điểm, nhưng hệ thống các ngân hàng thương mại chưa cho vay hoặc có thực hiện cho vay nhưng số lượng rất ít.
* Về đối tượng cho vay: ngân hàng thương mại cho khách hàng vay để nhận chuyển nhượng giá trị quyền sử dụng đất, thuê đất, mua sắm máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, mua nhiên, nguyên vật liệu để phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh, trả lương cho nhân viên…
Nhiều đối tượng cho vay như: chi phí xúc tiến quảng bá hình ảnh du lịch, chi phí thuê đất, chi phí đầu tư bảo tồn và phát triển rừng, chi phí đào tạo cán bộ ngành du lịch ở trong, ngoài nước…chưa được hệ thống các ngân hàng thương mại trên địa bàn quan tâm cho vay.
* Về thời hạn cho vay: các ngân hàng đầu tư cho các khách hàng vay theo 3 loại, đó là: cho vay ngắn hạn (dưới 12 tháng); cho vay trung hạn ( từ trên 12 tháng đến dưới 60 tháng) và cho vay dài hạn ( trên 60 tháng). Thông thường các ngân hàng thương mại trên địa bàn định kỳ hạn nợ cho vay không thực sự khoa học, chưa dựa
vào chu kỳ sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính của khách hàng mà cứ định thời hạn cho vay ngắn hạn thông thường là 12 tháng; trung hạn cho vay từ 2 đến 5 năm, kỳ hạn trả nợ là 3 tháng 1 kỳ và dài hạn là từ trên 5 năm trở lên và định kỳ hạn thu nợ là 3 hoặc 6 tháng trả nợ 1 lần.
* Về lãi suất cho vay: các ngân hàng thương mại cho vay theo lãi suất qui định khung của các ngân hàng thương mại trung ương, với lãi suất cho vay thoả thuận, lãi suất cho vay được tính toán dựa trên lãi suất huy động bình quân đầu vào cộng với chi phí hoạt động và lợi nhuận hợp lý để cho vay.
* Về cơ chế đảm bảo tiền vay: ngân hàng thương mại được tự chủ cho vay có hoặc không có đảm bảo bằng tài sản theo qui định của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cũng như hướng dẫn của các ngân hàng thương mại và tự chịu trách nhiệm trước các quyết định của mình. Nếu như cho vay có đảm bảo bằng tài sản thì tài sản đảm bảo có thể là của chính khách hàng vay, tài sản được bảo lãnh từ bên thứ ba hoặc tài sản hình thành từ vốn vay. Qui định là như vậy, nhưng trên thực tế thời gian qua các ngân hàng thương mại trên địa bàn chủ yếu cho vay có đảm bảo bằng tài sản là giá trị quyền sử dụng đất và các công trình gắn liền với đất, việc định giá đất chưa phù hợp với giá trị chuyển nhượng thực tế trên địa bàn. Do các ngân hàng chủ yếu cho vay thế chấp bằng bất động sản, nên có rất nhiều dự án kinh doanh khả thi nhưng khách hàng vẫn không thể tiếp cận được nguồn vốn vay của các ngân hàng thương mại.
* Mức cho vay: căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, các ngân hàng thương mại cho vay tối đa bằng 90% tổng nhu cầu vốn của khách hàng. Trên thực tế, các NHTM thường cho vay chỉ từ 25-80% tổng nhu cầu vốn của khách hàng.
* Về bộ hồ sơ cho vay: tùy vào qui định của từng ngân hàng, song bộ hồ sơ cho vay về cơ bản có các hồ sơ như sau:
- Đối với pháp nhân, doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh: Quyết định thành lập; điều lệ doanh nghiệp (trừ doanh nghiệp tư nhân); quyết định bổ nhiệm Chủ tịch hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (giám đốc), quyết định công nhận ban quản
trị, chủ nhiệm hợp tác xã; quyết định bổ nhiệm kế toán trưởng; đăng ký kinh doanh; giấy phép hành nghề (nếu có); biên bản góp vốn; danh sách thành viên sáng lập; kế hoạch sản xuất kinh doanh trong kỳ, báo cáo thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh kỳ gần nhất; giấy đề nghị vay vốn; dự án, phương án sản xuất kinh doanh trong kỳ; hồ sơ đảm bảo tiền vay (nếu món vay có đảm bảo bằng tài sản): giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng tài sản; biên lai nộp thuế; tờ khai nộp thuế trước bạ; hợp đồng đảm bảo tiền vay; hồ sơ đăng ký giao dịch đảm bảo…; các chứng từ có liên quan; hợp đồng tín dụng; hợp đồng kinh tế; giấy nhận nợ…
- Đối với hộ gia đình, cá nhân, tổ hợp tác: đăng ký kinh doanh; chứng minh nhân dân, hộ khẩu (sao y); giấy đề nghị vay vốn (có xác nhận của ủy ban cấp xã, phường); hợp đồng tín dụng; giấy nhận nợ; hợp đồng đảm bảo tiền vay; hồ sơ đăng ký giao dịch đảm bảo…
2.3. Đánh giá những mặt làm được, những hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong đầu tư tín dụng ngân hàng đối với ngành du lịch tỉnh Lâm Đồng
2.3.1. Một số mặt làm được
- Thúc đẩy ngành du lịch nói riêng, các ngành kinh tế khác nói chung phát triển, tạo công ăn việc làm và hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi: những năm qua, các ngân hàng thương mại trên địa bàn đã tài trợ cho ngành du lịch một khối lượng vốn tương đối lớn, đây là một trong những nguồn vốn quan trọng bổ sung cho ngành du lịch mở rộng đầu tư, tăng thu nhập, qua đó góp phần thúc đẩy ngành du lịch địa phương phát triển và như chúng ta đã biết, ngành du lịch có mối quan hệ hữu cơ với nhiều ngành, nghề khác và khi ngành du lịch phát triển sẽ kéo theo các ngành kinh tế khác cùng phát triển. Khi ngành du lịch Lâm Đồng phát triển đã góp phần tạo công ăn việc làm (đến cuối năm 2009, ngành du lịch đã thu hút được 16.841 lao động), góp phần ổn định trật tự xã hội và từng bước nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân địa phương. Ngoài ra, tín dụng ngân hàng cũng là nguồn vốn quan trọng góp phần hạn chế tình trạng cho vay nặng lãi tại địa phương.
- Thông qua đầu tư tín dụng cho ngành du lịch đã tạo ra được nhiều sản phẩm dịch vụ du lịch có chất lượng, qua đó ngày càng đáp ứng được nhu cầu của du khách trong và ngoài nước.
- Việc đầu tư tín dụng ngân hàng đối với ngành du lịch Lâm Đồng đã góp phần bảo tồn và phát triển một số ngành nghề truyền thống tại địa phương, tô thêm vẻ đẹp cảnh quan thiên nhiên, bộ mặt đô thị …tại địa phương: thông qua nguồn vốn vay, các tổ chức cá nhân đã đầu tư tôn tạo một số danh lam thắng cảnh, xây dựng các cơ sở, đầu tư trang thiết bị, đầu tư khôi phục và phát triển một số ngành nghề truyền thống…làm cho các danh lam thắng cảnh, bộ mặt đô thị được khang trang, đẹp đẽ hơn, một số ngành nghề truyền thống được bảo tồn và phát triển.
- Thông qua đầu tư tín dụng ngân hàng, ngân hàng phát sinh thêm các hoạt động thanh toán quốc tế, cũng như góp phần tăng nguồn thu ngoại tệ cho quốc gia.
- Tín dụng ngân hàng góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại địa phương, nâng cao trình độ của người dân địa phương: thực tế cho thấy trong những năm qua, cơ cấu kinh tế của tỉnh Lâm Đồng có những chuyển dịch đáng kể, theo đó tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ (trong đó có ngành du lịch) có xu hướng tăng lên, ngành nông nghiệp có xu hướng giảm xuống và như chúng ta đã biết, tín dụng ngân hàng là một nhân tố góp phần thúc đẩy ngành du lịch phát triển, du lịch phát triển sẽ góp phần tăng tỷ trọng ngành dịch vụ, chính vì vậy, tín dụng ngân hàng đã góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế tại địa phương. Mặt khác, ngành du lịch Lâm Đồng phát triển trong thời gian qua, đã mang lại nguồn thu nhập không nhỏ cho các tổ chức, cá nhân trực, gián tiếp hoạt động kinh doanh, cũng như làm việc trong lĩnh vực du lịch, qua đó có điều kiện để mua sắm các phương tiện, học tập để nâng cao trình độ. Hơn thế nữa, khi tiếp cận với du khách thì người dân bản địa sẽ có nhiều điều kiện để tiếp thu những kiến thức của các nền văn hoá khác nhau, đây cũng là một kênh để thu thập các kiến thức cho người dân.
- Tăng hiệu quả hoạt động của các ngân hàng: ngân hàng thương mại cũng là một tổ chức kinh tế và một trong những mục tiêu quan trọng của các tổ chức kinh tế
là hoạt động kinh doanh phải bảo toàn và phát triển được vốn, thông qua hoạt động tài trợ cho ngành du lịch, các ngân hàng thương mại trên địa bàn cũng đã tạo được nguồn thu thông qua việc thu lãi cho vay và các nguồn thu khác từ dịch vụ ngân hàng khác, qua đó góp phần bảo toàn và phát triển vốn, đảm bảo thu nhập cho cán bộ công nhân viên cũng như tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân hạn chế trong đầu tư tín dụng ngân hàng đối với ngành du lịch tỉnh Lâm Đồng.
2.3.2.1. Những hạn chế
Một là, Nguồn vốn huy động của các ngân hàng thương mại còn ở mức thấp, cơ cấu nguồn vốn chưa thực sự ổn định: đến 31/12/2010, tổng nguồn vốn huy động của các ngân hàng trên địa bàn là: 12.260 tỷ đồng, tổng dư nợ cho vay trên địa bàn là
18.241 tỷ đồng, như vậy nguồn vốn huy động tại chỗ của các ngân hàng thương mại chỉ đáp ứng được 67,2% tổng nhu cầu đầu tư tín dụng. Cơ cấu nguồn vốn chưa thực sự vững chắc, tiền gửi không kỳ hạn và tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng chiếm tỷ trọng khá cao trong tổng nguồn vốn huy động (90,06%); nguồn tiền gửi trên 12 tháng chiếm tỷ trọng thấp trong tổng nguồn vốn (9,94%), qua đó nguồn vốn trung dài hạn không đáp ứng được nhu cầu vay vốn của các tổ chức, cá nhân trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng nói chung, ngành du lịch nói riêng.
Hai là, tín dụng ngân hàng đầu tư cho du lịch còn rất thấp, cơ cấu tín dụng chưa thực sự hợp lý: thời gian qua, tài trợ của các ngân hàng thương mại cho phát triển ngành du lịch còn rất hạn chế, đến cuối năm 2010, nguồn vốn tài trợ cho ngành du lịch của các ngân hàng thương mại chỉ chiếm 3,2% tổng dư nợ cho vay, chưa đáp ứng được nhu cầu đầu tư của ngành du lịch. Cơ cấu tín dụng chưa thực sự hợp lý, nguồn tài trợ trung, dài hạn còn ở mức thấp.
Ba là, các ngân hàng thương mại chưa có chiến lược đầu tư cho ngành du lịch: việc đầu tư tín dụng còn mang tính tự phát, không theo một chương trình, kế hoạch cụ thể nào cả, vì vậy nhiều khi dẫn đến rủi ro tín dụng xảy ra. Khi xây dựng được chiến lược đầu tư cho ngành du lịch sẽ giúp các NHTM định hướng được nên
đầu tư vào dự án gì, đầu tư bao nhiêu, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động, từng bước tạo lập hình ảnh, thương hiệu của mình ngày càng tốt hơn.
Bốn là, các NHTM chưa xác định đối tượng đầu tư tín dụng cho ngành du lịch: cho vay du lịch là lĩnh vực đặc thù, do đó để có thể cho vay du lịch hiệu quả cần thiết phải xác định danh mục cụ thể nhằm hướng dẫn cho cán bộ tín dụng và khách hàng vay vốn khi làm hồ sơ xin vay và cấp tín dụng được rõ ràng, tạo điều kiện cấp tín dụng được dễ dàng hơn.
Năm là, chưa xác định được phương pháp cho vay hợp lý cho từng đối tượng vay: để tạo được điều kiện cho khách hàng và ngân hàng tiết kiệm được thời gian, chi phí khi vay vốn. Ngân hàng cần xác định cho khách hàng vay vốn một phương pháp cho vay thích hợp nhất. Hầu hết các khách hàng vay du lịch hiện nay đều được áp dụng phương pháp cho vay từng lần, theo món. Như vậy khi khách hàng cần vay thì phải làm đơn xin vay, phải thẩm định phương án vay, làm thủ tục đảm bảo…điều này sẽ gây ra tốn kém thời gian và chi phí mà nếu áp dụng phương pháp cho vay phù hợp thì có thể tiết kiệm được.
Sáu là, thủ tục vay vốn còn rườm rà, phức tạp, thời hạn cho vay còn chưa hợp lý, mức cho vay chưa phù hợp.
- Về thủ tục cho vay: nhiều thủ tục vay vốn còn mang nặng tính hình thức như: xác nhận của ủy ban nhân dân phường, xã trên giấy đề nghị vay vốn, biên bản xác định giá trị tài sản đảm bảo, phôtô hộ khẩu, chứng minh nhân dân, việc thế chấp tài sản phải vừa qua cơ quan công chứng, vừa phải đăng ký ở cơ quan đăng ký giao dịch đảm bảo…
- Thời gian cho vay còn chưa hợp lý: hiện nay nhiều ngân hàng thương mại trên địa bàn thường ấn định thời gian cho vay ngắn hạn là một năm, trung hạn từ trên 1 năm đến 5 năm, không quan tâm đến nguồn trả nợ, chu kỳ sản xuất kinh doanh, thời gian thu hồi vốn đầu tư để cho vay, điều đó làm ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của khách hàng.
-Mức cho vay còn chưa thực sự hợp lý: thông thường các ngân hàng thương mại qui định tỷ lệ vốn tự có của khách hàng phải chiếm từ 20-40% vốn tự có, gây không ít khó khăn cho khách hàng, đặc biệt là những khách hàng có dự án, phương án sản xuất kinh doanh khả thi, nhưng có nguồn vốn tự có thấp thì không được các ngân hàng tài trợ.
Bảy là, vấn đề đảm bảo tiền vay: chủ trương, chính sách thì tài sản đảm bảo chỉ là một trong những điều kiện nhất định để quyết định mức cho vay, tuy nhiên đa số các ngân hàng trên địa bàn đều xem tài sản đảm bảo là một trong những điều kiện bắt buộc để cho vay, đến nay có rất ít khách hàng hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực du lịch vay vốn mà không có tài sản đảm bảo. Việc tính toán giá trị tài sản đảm bảo chưa sát với giá trị thực của nó trên thị trường, tỷ lệ cho vay trên tài sản đảm bảo còn thấp; chưa quan tâm đến việc cho vay đối với tài sản hình thành từ vốn vay, các tài sản bằng động sản.
Tám là, ứng dụng công nghệ ngân hàng và phát triển các điểm chấp nhận thẻ thanh toán quốc tế còn có những hạn chế nhất định: hệ thống công nghệ ngân hàng còn có những điểm bất cập, hoặc là chưa đáp ứng được yêu cầu, hoặc là chưa khai thác hết được chức năng của nó, nên chưa đưa ra được nhiều sản phẩm dựa trên nền tảng công nghệ thông tin, nhiều sản phẩm bị lỗi, tính an toàn hệ thống còn chưa cao; phát triển các điểm chấp nhận thẻ thanh toán đến các điểm tham quan, các khách sạn, nhà hàng, hệ thống bán lẻ… còn chậm, nhiều khách nước ngoài muốn tham quan, mua sắm hay sử dụng các dịch vụ khác phải sử dụng tiền mặt mới thực hiện được, điều đó làm giảm đi mức chi tiêu của khá nhiều du khách.
Chín là, trình độ và đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận cán bộ tín dụng còn hạn chế nhất định, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của hệ thống các ngân hàng thương mại.
2.3.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Một là, nguồn vốn huy động tại chỗ chưa cao, cơ cấu không thực sự vững chắc do nhiều nguyên nhân, như: kinh tế trên địa bàn thời gian qua tuy có phát triển,