CHƯƠNG 3. TRIỂN VỌNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG LIÊN BANG NGA TRONG BỐI CẢNH THỰC THI FTA VIỆT NAM – LIÊN MINH KINH TẾ Á-ÂU
3.1. Triển vọng về đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga trong bối cảnh FTA Việt Nam – Liên minh kinh tế Á-Âu được thực thi sâu rộng hơn trong thời gian tới
3.1.1. Dự báo về thị trường Liên bang Nga trong thời gian tới
3.1.1.1. Dự báo về các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga
a) Tình hình chính trị, hợp tác quốc tế của Liên bang Nga trong thời gian tới
Do tính chất chính trị tương đối đặc thù của mình mà mối quan hệ giữa Nga với Mỹ và các nước phương Tây luôn ở trạng thái căng thẳng và gần như đối lập nhau. Trong những năm qua, mặc dù vị thế và tầm ảnh hưởng trở nên ngày càng mạnh mẽ của mình trên trường quốc tế tuy nhiên, trong ngắn hạn, Liên bang Nga sẽ tiếp tục có những xung đột chính trị và chịu ảnh hưởng từ các lệnh cấm vận từ Hoa Kỳ, các nước đồng minh và Liên minh châu Âu. Song song với đó, Liên bang Nga sẽ tìm cách tăng cường quan hệ với Trung Quốc, Ấn Độ và các quốc gia khác trong đó có Việt Nam. Trong dài hạn, dự kiến quan hệ giữa Liên bang Nga và Hoa Kỳ sẽ có những chuyển biến tích cực hơn, tạo điều kiện để phục hồi kinh tế, thương mại.
b) Sự phát triển của nền kinh tế Liên bang Nga: Năm 2020 là một năm đầy biến động của nền kinh tế thế giới do những tác động từ dịch bệnh Covid-19. Kim ngạch xuất nhập khẩu của hầu hết quốc gia đều có sự giảm mạnh do những biện pháp đóng cửa tạm thời nền kinh tế để chống dịch. Chuỗi cung ứng toàn cầu cũng bị đứt gãy và hàng loạt các công ty, tập đoàn thua lỗ hay đứng trước nguy cơ phá sản. Tuy nhiên, trong năm 2020, kinh tế Nga vẫn có sự phát triển đáng kể khi Nga đã vươn từ vị trí thứ bảy lên thứ hai trong bảng xếp hạng các nền kinh tế mới nổi của tờ tạp chí Bloomberg. Sự tăng trưởng của nền kinh tế Nga cũng đã được các chuyên gia Ngân hàng Thế giới lưu ý: Trong bảng xếp hạng Doing Business, Nga đã vươn từ vị trí thứ 35 lên 31 trong một năm. Năm 2012, vị trí của Nga trong bảng xếp hạng này là đứng thứ 120. Cũng theo tính toán của WB, nếu xét về quy mô GDP, Nga đã tiến gần hơn tới nhóm 10 quốc gia hàng đầu thế giới, vượt qua Hàn Quốc và đứng thứ 11. Sự phát
triển của nền kinh tế Liên bang thúc đẩy hoạt động nhập khẩu và từ đó tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường này.
Có thể bạn quan tâm!
- Số Lượng Doanh Nghiệp Thuỷ Sản Việt Nam Xuất Khẩu Sang Liên Bang Nga Trong Giai Đoạn 2016 - 2020
- Kim Ngạch Xuất Khẩu Thủy Sản Của Việt Nam Sang Liên Bang Nga Trong Giai Đoạn 2013 – 2020
- Kim Ngạch Xuất Khẩu Mực Và Bạch Tuộc Của Việt Nam Sang Liên Bang Nga Trong Giai Đoạn 2013 – 2020
- Đề Xuất Giải Pháp Đẩy Mạnh Xuất Khẩu Hàng Hóa Việt Nam Sang Thị Trường Liên Bang Nga Trong Bối Cảnh Fta Việt Nam – Liên Minh Kinh Tế Á-Âu
- Đề Xuất Giải Pháp Đối Với Doanh Nghiệp Xuất Khẩu
- Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Liên bang Nga trong bối cảnh thực thi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - Liên minh kinh tế Á-Âu - 17
Xem toàn bộ 178 trang tài liệu này.
c) Chính sách kinh tế, thương mại của Liên bang Nga thời gian tới: Trên cơ sở phân tích thực trạng quan hệ kinh tế giữa Liên bang Nga và một số quốc gia khu vực Biển Đông cũng như với ASEAN, đồng thời xem xét những xu hướng trong quan hệ kinh tế giữa Nga và khu vực này, dưới đây là một số nhận định về chính sách kinh tế của Liên bang Nga ở khu vực Biển Đông.
Thứ nhất, chính sách kinh tế của Liên bang Nga ở khu vực Biển Đông gắn liền với chính sách hướng Đông của quốc gia này và dần coi quan hệ thương mại, đầu tư với các quốc gia khu vực Biển Đông và ASEAN là đối tác thương mại quan trọng, nhất là những hợp tác trong lĩnh vực Nga là thế mạnh như hợp tác về dầu khí, năng lượng, các ngành công nghiệp khai khoáng, công nghiệp quốc phòng. Bên cạnh đó, quan hệ trong lĩnh vực nông nghiệp và thực phẩm chế biến cũng dần được phát triển do những khan hiếm về thực phẩm ở thị trường Liên bang Nga;
Thứ hai, Liên bang Nga vẫn tập trung vào quan hệ kinh tế với với Trung Quốc và Việt Nam như là hai thị trường chủ chốt trong khu vực. Chính sách kinh tế của Nga ở khu vực này có sự phân chia khá rõ nét khi vẫn coi Trung Quốc là đối tác chủ yếu do nhu cầu nguồn vốn, công nghệ rất lớn của Nga cũng như việc đẩy mạnh quan hệ kinh tế đáp ứng được nhu cầu, lợi ích của cả hai nước. Đối với Việt Nam, chính sách kinh tế của Nga coi Việt Nam là bạn hàng truyền thống trong lĩnh vực dầu khí, năng lượng và công nghiệp quốc phòng. Bên cạnh đó, Nga coi Việt Nam là cửa ngõ để tham gia vào thị trường Đông Nam Á. Chính vì thế, trong tương lai, chính sách kinh tế của Nga với Việt Nam sẽ mở rộng hơn nữa để đáp ứng yêu cầu hội nhập này.
Thứ ba, trong quan hệ kinh tế với Trung Quốc, chính sách kinh tế của Nga luôn nỗ lực tách bạch kinh tế và an ninh, chính trị. Tuy nhiên, trong quan hệ kinh tế với Việt Nam, Nga luôn có chính sách lựa chọn những lĩnh vực hợp tác kinh tế được coi là nhạy cảm hơn để qua đó có thể phần nào giúp Việt Nam củng cố tiềm lực quốc phòng, giảm lệ thuộc vào năng lượng, tác động an ninh từ Trung Quốc cũng như khẳng định chủ quyền trong những tranh chấp ở Biển Đông dù rằng trong mọi tuyên
bố Nga luôn khẳng định Nga chỉ quan tâm đến các lợi ích kinh tế và việc thỏa thuận khai tác mỏ khí tại hai lô 05.2 và 05.3 trên Biển Đông là một ví dụ.
d) Mức độ cạnh tranh quốc tế: Ở thời điểm hiện tại, Liên minh kinh tế Á-Âu đang tích cực đẩy mạnh, mở rộng đàm phán, ký kết FTA với các quốc gia khác, trong đó ngoài Việt Nam đã ký kết FTA với các quốc gia như Trung Quốc, Singapore, Iran, Cu Ba và đang tiếp tục đàm phán FTA với 14 quốc gia khác. Trong thời gian tới, sức ép từ các quốc gia là đối thủ cạnh tranh của Việt Nam trong các hoạt động xuất khẩu hàng hóa vào Liên bang Nga sẽ liên tục gia tăng, đặt ra những thách thức không nhỏ cho xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam.
3.1.1.2. Dự báo nhu cầu và xu hướng tiêu dùng của thị trường Liên bang Nga
Nga vốn là thị trường truyền thống của hàng hóa Việt Nam và “dễ tính” trong khâu tuyển chọn mẫu mã, chất lượng so với nhiều nước châu Âu và các doanh nghiệp Việt Nam đang hưởng lợi từ ưu thế này. Trong bối cảnh tình hình Mỹ và Liên minh Châu Âu áp dụng các lệnh cấm vận toàn phần đối với Liên bang Nga, thị trường này đang rất cần các mặt hàng tiêu dùng thiết yếu như thủy hải sản, bánh kẹo, cà phê, rau củ quả và các mặt hàng như dụng cụ y tế, quần áo, giày dép, chăn màn, đồ gỗ… Mặc dù kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Nga hàng năm không ngừng tăng nhưng nhu cầu từ phía Nga đối với hàng hóa của Việt Nam vẫn rất lớn.
Với thị trường tiêu dùng và bán lẻ rộng lớn, đa dạng hàng hóa nhập khẩu, các chuyên gia vẫn đánh giá thị trường Liên bang Nga là “mảnh đất” đầy tiềm năng cho các mặt hàng nông - lâm - thủy sản của Việt Nam.
Năm 2019, Nga nhập khẩu trên 5 tỷ USD trái cây tươi; từ 1,3-1,5 tỷ USD sản phẩm chế biến từ rau, quả, hạt các loại; trên 2 tỷ USD thịt các loại; trên 2,4 tỷ USD hàng thủy sản các loại. Nhiều hàng hóa của Việt Nam được người dân Nga ưa chuộng, đặc biệt là đồ gỗ, nông sản (trái cây có múi và cà phê). Rau, quả là nhóm hàng khá tiềm năng xuất khẩu sang thị trường Nga do đây là xứ lạnh, có nhu cầu ngày càng tăng về rau, quả nhiệt đới. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, 2 tháng đầu năm 2020, kim ngạch xuất khẩu hàng rau, quả sang thị trường Nga đạt 8,2 triệu USD, tăng 246,1% so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó, rau, quả chế biến đạt 6,7 triệu USD, tăng 293,5% so với cùng kỳ năm 2019. Với vị trí địa lý xa, thời gian vận chuyển dài,
việc xuất khẩu rau, quả chế biến sang thị trường này là lựa chọn tốt cho các doanh nghiệp.
Việt Nam là nước cung cấp hàng đầu mặt hàng cà phê vào Nga năm 2019, đạt 154,3 triệu USD, giảm 15,9% so với năm 2018, chiếm 24,5% tổng kim ngạch nhập khẩu mặt hàng này của Nga, so với 31% năm 2018. Với khoảng cách vị trí địa lý làm tăng chi phí xuất khẩu, cùng phương thức thanh toán chưa thuận lợi, cà phê Việt Nam đang phải cạnh tranh gay gắt với cà phê của Braxin, Italia, Đức… do những nước này đang tăng cường xuất khẩu sang thị trường Nga.
3.1.2. Dự báo về xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang thị trường Liên bang Nga trong thời gian tới
3.1.2.1. Chính sách xuất khẩu trong nước:
Trong thời gian 5 năm gần đây, chính sách xuất khẩu theo mô hình tăng trưởng bền vững của Việt Nam đã ngày càng khẳng định vai trò trong đóng góp vào tăng trưởng kinh tế cũng như khai thác hiệu quả thành tựu của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Cụ thể, quy mô thương mại của Việt Nam ngày càng tăng, đạt gần 544 tỷ USD vào năm 2020, xuất siêu kỷ lục 19,1 tỷ USD (mức cao nhất trong 5 năm liên tiếp tính từ năm 2016). Mặt khác, năng lực cạnh tranh xuất khẩu cũng dần được củng cố, nhiều mặt hàng xuất khẩu của nước ta có vị trí quan trọng trong xếp hạng của thế giới. Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Việt Nam có không ít mặt hàng xuất khẩu đứng trong nhóm 10 quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới như nhóm hàng về thiết bị văn phòng và viễn thông, dệt, quần áo,... Bên cạnh đó, cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tiếp tục cải thiện theo hướng giảm hàm lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, chế tạo; cơ cấu thị trường xuất khẩu có sự chuyển dịch theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa thị trường; cơ cấu về thành phần xuất khẩu cũng có dấu hiệu tích cực khi xuất khẩu của khối doanh nghiệp trong nước đã tăng trưởng cao vượt khu vực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài.
Trong Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011 – 2020, định hướng đến năm 2030 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2471/QĐ-TTg ngày 28/12/2011, đối với định hướng thị trường đã “xác định củng cố và mở rộng thị phần hàng hóa Việt Nam tại thị trường truyền thống” và “Tận dụng tốt các cơ hội mở cửa thị trường của nước ngoài và lộ trình cắt giảm thuế quan để đẩy mạnh xuất khẩu
và nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng hóa Việt Nam sang các thị trường đã ký FTA”, trong đó có thị trường Liên bang Nga. Nhóm hàng nông, lâm, thủy sản (là một trong các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực vào Liên bang Nga) cũng được định hướng “Nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng; chuyển dịch cơ cấu hàng hóa xuất khẩu hướng mạnh vào chế biến sâu, phát triển sản phẩm xuất khẩu có ứng dụng khoa học công nghệ tiên tiến”. Hiện nay, Bộ Công Thương đang chủ trì xây dựng Chiến lược xuất nhập khẩu cho giai đoạn đến năm 2030 để trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phê duyệt. Trong chiến lược cho giai đoạn sắp tới, các nội dung định hướng đối với các thị trường truyền thống như Liên bang Nga có nhiều khả năng sẽ được tiếp tục duy trì và đẩy mạnh hơn nữa.
Năm 2020, Bộ Công thương đã ban hành Quyết định số 2124/QĐ-BCT về việc ban hành “Kế hoạch hoạt động Xúc tiến thương mại giai đoạn 2020-2025 góp phần phát triển xuất khẩu bền vững trong bối cảnh thực thi EVFTA, CPTPP và các hiệp định thương mại tự do”. Theo đó, để khai thác hiệu quả các FTA trong bối cảnh xu hướng bảo hộ gia tăng, xung đột thương mại đang diễn biến phức tạp, cần tiếp tục triển khai thực hiện các giải pháp cụ thể trên cơ sở một số định hướng sau: Thứ nhất, tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu, giúp doanh nghiệp Việt Nam nâng cao năng lực sản xuất xuất khẩu và cạnh tranh, tham gia sâu vào chuỗi giá trị khu vực. Đồng thời, tạo cơ hội để doanh nghiệp Việt Nam cọ xát hơn với thế giới, có điều kiện để phát triển hoạt động sản xuất, kinh doanh, khẳng định vị thế trên trường quốc tế. Thứ hai, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu sản phẩm xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng sản phẩm có giá trị gia tăng cao, giảm hàm lượng xuất khẩu thô, tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến, sản phẩm công nghiệp. Thứ ba, triển khai áp dụng quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn quốc tế đối với các sản phẩm xuất khẩu. Thứ tư, nâng cao hiệu quả và đổi mới phương thức xúc tiến thương mại, tập trung vào các hàng hóa có lợi thế xuất khẩu, các thị trường tiềm năng và thị trường ngách để mở ra các thị trường mới, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Bên cạnh đó, khuyến khích, hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng sản phẩm xuất khẩu đạt thương hiệu quốc gia và xây dựng thương hiệu doanh nghiệp.
3.1.2.2. Chính sách tỷ giá hối đoái:
Trong các năm gần đây, Chính phủ Hoa Kỳ đang đẩy mạnh sự theo dõi, giám sát đối với các chính sách quản lý tiền tệ của Việt Nam. Ngày 14/01/2020, Bộ Tài chính Hoa Kỳ đã ban hành báo cáo về “Chính sách kinh tế vĩ mô và ngoại hối của các đối tác thương mại lớn của Hoa Kỳ (Báo cáo của Bộ Tài chính Hoa Kỳ), trong đó tiếp tục xác định Việt Nam là một trong 10 quốc gia cần giám sát thao túng tiền tệ (lần đầu tiên là tại báo cáo Tháng 5/2019). Để tránh bị Chính phủ Hoa Kỳ xác định là thao túng tiền tệ và áp dụng các lệnh cấm vận, trong thời gian tới Chính phủ Việt Nam sẽ phải có những thay đổi trong chính sách quản lý tiền tệ, đặc biệt là chính sách tỷ giá hối đoái theo hướng xác định chính xác, sát sao hơn về trị giá của đồng tiền Việt Nam so với đồng Đô la Mỹ. Sự thay đổi này chắc chắn sẽ gây ảnh hưởng to lớn đến hoạt động xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam nói chung và xuất khẩu hàng hóa sang thị trường Liên bang Nga nói riêng.
3.1.2.3. Khả năng sản xuất trong nước
Trong những năm qua, Việt Nam đã nắm bắt được xu hướng dịch chuyển sản xuất của thế giới. Bên cạnh việc giữ vững, đạt mức tăng trưởng tốt ở những thị trường xuất khẩu lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã có những bứt phá tại các thị trường khác. Ngành nông nghiệp phát triển với năng suất được cải thiện và chất lượng sản phẩm nông nghiệp được nâng cao nhờ áp dụng các quy trình sản xuất đạt chuẩn quốc tế như ISO, HACCP, các tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp như GlobalGAP, Fairtrade. Ngành thuỷ sản với sản lượng nuôi trồng tăng liên tục và hoạt động chế biến được cải thiện. Với ngành dệt may, các sản phẩm dệt may truyền thống, các mặt hàng có giá trị tăng cao cũng có tăng trưởng tốt. Đáng chú ý, căng thẳng thương mại giữa Mỹ - Trung Quốc và dịch Covid-19 đã khiến cho xu hướng dịch chuyển nguồn cung ứng ra khỏi thị trường Trung Quốc sang khu vực châu Á, trong đó có Việt Nam nhanh hơn. Năng lực sản xuất được tăng cường đã và đang đóng góp tích cực trong đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam sang Liên bang Nga.
3.1.2.4. Cơ sở hạ tầng trong nước
Xu hướng hiện nay là phát triển kết cấu hạ tầng xuất nhập khẩu gắn với việc hình thành với các khu kinh tế - cảng biển. Theo Quy hoạch tổng thể phát triển thương mại Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 và định hướng đến năm 2030, có các khu kinh tế gắn liền với cảng biển: Chu Lai gắn với cảng biển Kỳ Hà; Dung Quất – cảng biển Dung Quất, Nhơn Hội – cảng Nhơn Hội, Chân Mây – Lăng Cô với cảng Chân Mây; Phú Quốc – Nam An Thới với cảng An Thới; Vũng Áng – cảng Vũng Áng; Vân Phong – cảng vân Phong; Nghi Sơn - cảng Nghi Sơn, Vân Đồng – cảng Vạn Hoa; Đông Nam Nghệ An – cảng Cửa Lò; Đình Vũ - Cát Hải - cảng Đình Vũ; Nam Phú Yên – cảng Vũng Rô; Hòn La – cảng Hòn La. Tuy nhiên, có một thực tế là các khu kinh tế ở Việt Nam hiện nay đa phần đều mới được thành lập, hoặc đang trong quá trình xây dựng. Theo thống kê đến hết năm 2020, trên địa bàn cả nước có 15 khu kinh tế gắn liền với cảng biển. Tại miền Bắc có 2 khu kinh tế là Đình Vũ – Cát Hải và Vân Đồn, miền Nam có khu kinh tế Phú Quốc – An Thới, còn lại tập trung ở miền Trung. Đặc biệt là các khu kinh tế này hầu hết đều có khu vực thuế quan và phi thuế quan.
Chuyên gia Đỗ Xuân Quang - Viện Nghiên cứu và Phát triển Logistics cho rằng: “Các địa phương đồng loạt đề xuất thành lập quá nhiều khu kinh tế, trong khi khả năng cân đối nguồn vốn ngân sách đầu tư hạ tầng lại rất hạn chế dẫn đến đầu tư hạ tầng các khu kinh tế yếu và thiếu, dàn trải, các khu kinh tế chậm phát triển”. Vì vậy, hệ thống kết cấu hạ tầng đảm bảo cho hoạt động xuất nhập khẩu tại các khu kinh tế vẫn còn sơ khai, nên lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, đặc biệt là tại khu vực miền Trung còn thấp và không đồng đều”. Tuy nhiên, hệ thống kết cấu hạ tầng xuất nhập khẩu gắn với cảng biển vẫn đang đảm nhận vai trò chủ đạo của mình so với các loại hình vận chuyển khác, với hệ thống kho bãi, các cơ sở thu gom, phân loại, đóng gói hàng hóa xuất khẩu, các trung tâm phân phối hàng hóa nhập khẩu,… Hệ thống cảng biển nước sâu, hệ thống các khu kinh tế đa ngành mà trong đó xương sống của nó là một nền đại công nghiệp quan trọng cho quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
3.1.2.5. Sự phát triển của các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu
Các dịch vụ hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu như dịch vụ vận tải, dịch vụ logistics phát triển chính là yếu tố quan trọng thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam nói chung và xuất khẩu sang Liên bang Nga nói riêng. Năm 2020, World Bank xếp hạng ngành logistics Việt Nam đứng thứ 39/160 quốc gia trên thế giới và thứ 3 trong ASEAN, chỉ xếp sau Singapore và Thái Lan, và tăng 35 bậc so với năm 2016. Điều này cho thấy, dịch vụ logistics của Việt Nam đang dần được cải thiện và giúp nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa và các doanh nghiệp Việt Nam.
Tuy nhiên, theo Niên giám thống kê vận tải và logistics của Ngân hàng Thế giới và Bộ Giao thông vận tải năm 2018 công bố vào tháng 5/2020 cho thấy, chi phí logistics trên doanh thu của doanh nghiệp trên toàn quốc chiếm 8,96% với các doanh nghiệp sản xuất và 9,7% doanh nghiệp phân phối, bình quân là 9,37% với các doanh nghiệp sản xuất và phân phối. Trong đó, chi phí vận tải vẫn là thành phần chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng chi phí logistics. Theo Ông Trần Đức Nghĩa – Đại diện Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA): “Chi phí hàng hóa tăng cao do chi phí vận chuyển và lưu kho, thời gian vận chuyển kéo dài đang là bất lợi đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam và giảm lợi thế cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam”.
3.1.2.6. Khả năng hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp xuất khẩu
Theo Ông Nguyễn Tú Anh - Vụ trưởng Vụ Kinh tế tổng hợp, Ban Kinh tế Trung ương: “Hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam trong những năm gần đây đã có nhiều khởi sắc, nhưng vẫn còn nhiều khó khăn về giá thành nguyên liệu, cước phí logistics, đặc biệt là giao thương trực tiếp khó thực hiện và vấn đề nhân công do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19. Điều này khiến các doanh nghiệp xuất nhập khẩu gặp khó vì không có dòng tiền xoay vòng trong sản xuất, chi phí doanh nghiệp tăng cao. Do đó, bài toán về vốn của các doanh nghiệp lĩnh vực xuất khẩu luôn cần sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng cùng ngành ngân hàng”.
Về phía cơ quan quản lý, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 75/2011/NĐ- CP ngày 30/8/2011 về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, Bộ Tài chính cũng đã ban hành Thông tư hướng dẫn về Nghị định này. Theo đó, các doanh