Tăng Cường Giám Sát Vi C Sử D Ng Vốn Đầu Tư Công


Nghiên cứu sửa đổi các nội dung chồng chéo giữa các Nghị định của Chính phủ về công tác thẩm định nguồn vốn, chủ trương đầu tư, dự án đầu tư để đảm bảo sự thống nhất về quy trình thực hiện giữa Luật Đầu tư công và Luật xây dựng. Đồng thời, bổ sung quy định rò ràng, cụ thể các khái niệm về vốn ngân sách nhà nước, vốn nhà nước ngoài ngân sách, vốn sự nghiệp có tính chất đầu tư...để có cơ sở tham mưu, hướng dẫn quy trình, xây dựng, quy định phân công, phân cấp trong lập, thẩm định và phê duyệt chủ trương đầu tư, quyết định dự án đầu tư.

Xem xét phân cấp trong việc thực hiện thủ tục thẩm định, phê duyệt chủ trương đầu tư; thẩm định, phê duyệt thiết kế kỹ thuật, dự toán.

Cần có hướng dẫn cụ thể nội dung về chi phí lập, thẩm định, quyết định chủ trương đầu tư.

Cho phép lựa chọn hình thức chỉ định thầu đối với các nhà thầu tư vấn lập quy hoạch, các dự án đặc thù, ở những địa bàn khó khăn.

Hoàn thiện đ nh gi trong thẩm định d n Đầu tư công

Thứ nhất, xây dựng hệ thống đánh giá kết quả, hiệu quả chương trình, dự án sau khi hoàn thành. Theo đó, tất cả các chương trình, dự án Đầu tư công sau khi hoàn thành đều phải lập báo cáo kết quả đầu tư và HQĐT; thời gian lập báo cáo tùy thuộc vào quy mô, cấp, nhóm dự án. Nội dung tiêu ch đánh giá kết quả, hiệu quả chương trình, dự án sau khi hoàn thành so với nội dung, tiêu ch đã được phê duyệt, gồm: mục tiêu và lợi ích của dự án sau khi hoàn thành (lợi ích kinh tế-xã hội, lợi ích tài ch nh); năng lực, tiện ích khai thác phục vụ của dự án; quy mô sử dụng đất đai và các nguồn tài nguyên khác; tác động môi trường, sinh thái của dự án; công nghệ, thiết bị của dự án; thời gian xây dựng công trình; đánh giá chi ph xây dựng công trình; đánh giá về tác động môi trường và hiệu quả xã hội; đánh giá về khả năng thu hồi vốn đầu tư (nếu có); đánh giá về tiếu kiệm trong đầu tư xây dựng công trình. Tùy theo yêu cầu của mỗi ngành, mỗi lĩnh vực có thể bổ sung hoặc giảm bớt các nội dung và tiêu ch đánh giá về kết quả, HQĐT.

Thứ hai, xây dựng hệ thống đánh giá, xếp hạng các nhà thầu (tư vấn, thiết kế, xây dựng). Hệ thống tiêu ch đánh giá năng lực của nhà thầu bao gồm: năng lực tài ch nh, năng lực quản lý, năng lực kỹ thuật, chỉ tiêu đánh giá kinh nghiệm, kết quả


hoạt động (số lượng dự án, công trình đã thực hiện, doanh thu, lỗ, lãi, vốn chủ sở hữu. nợ phải trả); tiêu chí, chấm điểm về vi phạm chủ trương đầu tư, đấu thầu, chất lượng công trình. Thực hiện xác định các tổ chức đánh giá, xếp hạng, công bố công khai hàng năm các nhà thầu hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam và kết quả đánh giá, xếp hạng là một trong tiêu chí xem xét khi nhà thầu tham gia đấu thầu các dự án Đầu tư công khác cũng như kết quả chấm thầu. Việc đánh giá, xếp hạng nhà thầu nên giao cho các tổ chức độc lập có uy tín hoặc tổ chức xã hội nghề nghiệp thực hiện.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 255 trang tài liệu này.

Thứ ba, xây dựng hệ thống đánh giá mức độ tín nhiệm về tài chính của các tổ chức, cơ quan, ch nh quyền địa phương sử dụng vốn đầu tư công hàng năm nhằm đánh giá đúng, xếp hạng, công khai năng lực huy động, quản lý, sử dụng vốn đầu tư công. Bên cạnh đánh giá của cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư công, cần phải khuyến khích, phát triển các tổ chức tư vấn đánh giá t n nhiệm độc lập và sử dụng tổ chức đánh giá t n nhiệm quốc tế trong trường hợp cần thiết theo yêu cầu của công tác quản lý.

Tất cả các kết quả đánh giá, xếp hạng trên đều phải được công bố công khai, minh bạch và thường xuyên cập nhật trên các phương tiện thông tin đại chúng cũng như trên các trang thông tin điện tử chuyên ngành.

Tác động của đầu tư công đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát tại Việt Nam - 22

Cần cải thiện c chế gi m s t đ nh gi hiệu quả quản lý đầu tư công

Để hoàn thiện thể chế giám sát và đánh giá đầu tư công. Trước mắt cần cải thiện kỷ luật báo cáo, thong tin của các cơ quan được phân cấp đối với các Bộ, ngành quản lý lĩnh vực của các dự án, nhằm bảo đảm nắm rò được tình hình thực hiện các dự án để có những chỉ đạo, điều chỉnh chính sách phù hợp. Quy định về trách nhiệm giám sát, quản lý ngành của các Bộ, ngành cần được củng cố nhằm gắn trách nhiệm này với các cá nhân cụ thể, qua đó tạo them động lực cho giám sát chặt chẽ và hiệu quả.

Bên cạnh đó, cần hoàn thiện các quy định nhằm tăng cường vai trò giám sát của các cộng đồng dân cư ở địa bàn thực hiện dự án, song song với củng cố cơ chế nhận thông tin, phản hồi của cộng đồng dân cư này. Bản thân các tiêu ch , phương pháp đánh giá hiệu quả các dự án (giữa kỳ hoặc sau khi hoàn thành) cần được chuẩn hoá, với các hướng dẫn và tham chiếu cụ thể nhằm đảm bảo đánh giá mang tính


thực chất, thống nhất, dễ so sánh, điều này sẽ giúp định hướng xây dựng và thực hiện dự án, đồng thời giúp thể chế hoá công tác giám sát đầu tư công.

Nâng cao năng lực quản lý đầu tư, hiệu lực và hiệu quả công tác giám sát, đánh giá hiệu quả đầu tư Nhà nước; Chỉ định cơ quan đầu mối phối hợp và chịu trách nhiệm cuối cùng trong kiểm tra. giám sát và đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội của các dự án đầu tư nói riêng và đầu tư Nhà nước nói chung.

Thực hiện nghiêm các điều khoản của Luật Quản lý nợ công (sửa đổi) năm 2018 về: Siết chặt quy định về nợ bảo lãnh ch nh phủ, vay về cho vay lại; trách nhiệm người đứng đầu và đặc biệt là quy định về thống nhất chức năng, nhiệm vụ của cơ quan QLNC về một đầu mối. Đó là Ch nh phủ thống nhất quản lý nhà nước về nợ công, Bộ Tài ch nh là cơ quan đầu mối giúp Ch nh phủ thống nhất quản lý nhà nước về nợ công. Trong đó quy định rò nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Tài ch nh là “chủ trì tổ chức thực hiện đàm phán, ký kết thỏa thuận vay thương mại, hiệp định khung, hiệp định cụ thể về vay OD và vay ưu đãi nước ngoài nhân danh Nhà nước và Ch nh phủ”; giao Ch nh phủ phân công cụ thể nhiệm vụ, cơ chế phối hợp của các bộ, ngành liên quan trong quản lý nhà nước về nợ công.

Phân bổ nguồn v n đầu tư công h p lý

Cần tăng chi đầu tư công vào các lĩnh vực giúp tăng năng suất lao động và tăng năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP) để thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững:

+ Giáo dục, y tế là một trong những nhân tố quan trọng quyết định đến chất lượng vốn con người rồi từ đó tác động đến tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, thông qua giáo dục và y tế giúp cải thiện NSLĐ giúp quốc gia có thể đạt được mức tăng trưởng cao và bền vững. Do đó, nhà nước cần quan tâm và ưu tiên cấp vốn đầu tư cho các lĩnh vực này. Đặc biệt cải cách mạnh mẽ hệ thống giáo dục, đào tạo theo hướng hỗ trợ mạnh mẽ cho các ngành khoa học, công nghệ và kỹ thuật.

+ Tăng cường chi đầu tư cho nghiên cứu và phát triển khoa học công nghệ. Trong đó có ch nh sách khuyến khích ứng dụng các bài học thành công của cuộc cách mạng 4.0 vào giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học công nghệ. Góp phần cải thiện và tăng tỷ lệ đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP). Đây là biện pháp nhằm hạn chế tăng trưởng kinh tế dựa trên thâm dụng vốn.


+ Cơ cấu lại đầu tư Nhà nước, thay vì tăng nguồn vốn hỗ trợ cho ngành bất động sản thì nên tăng thêm đầu tư cho y tế, đào tạo nghề, phát triển hệ thống tài ch nh, phát triển hệ thống an sinh xã hội; phát triển các dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp, tiêu thụ nông sản.

Phần lớn các chính sách an sinh xã hội ban hành đều gắn với những đối tượng thụ hưởng trực tiếp ở địa phương. Do đó các địa phương cần phải tích cực trong việc huy động các nguồn thu gắn với kinh tế địa phương để có thể tự chủ động cân đối ngan sách. Bên cạnh nguyên tắc phải tập trung những nguồn thu lớn, các nguồn thu quan trọng về NSTW để điều tiết chung cho cả nước. Nhưng vẫn cần phải cân nhắc để tăng cường ngân sách trung ương hỗ trợ cho NSĐP, hoặc tăng phần phân cấp tài khóa cấp được giữ lại cho những địa phương đang là đầu tàu kinh tế của cả nước (điển hình như Tp Hồ Chí Minh, Hà Nội). Để nguồn vốn NSNN hạn chế bị phân tán và tăng cường khả năng đầu tư để dứt điểm các công trình trọng yếu của những tỉnh/thành có vai trò đóng góp to lớn đối với kinh tế quốc gia.

Cần tăng cường phân bổ vốn đầu tư công cho các dự án ưu tiên hoặc cho các vùng kinh tế trọng điểm có vai trò lớn, mang t nh đột phát và lan tỏa để làm đầu tàu thúc đẩy nền kinh tế quốc gia.

4.2.3. Tăng cường giám sát vi c sử d ng vốn đầu tư công

Công tác quản lý nhà nước về ĐTC là điều kiện cần thì công tác kiểm tra, giám sát và thực hiện công khai, minh bạch là điều kiện đủ để nâng cao HQĐT công. Về nguyên tắc, công tác kiểm tra, giám sát, công khai, minh bạch phải được thực hiện thường xuyên, liên tục ở tất cả các khâu từ chủ trương, quyết định đầu tư cho đến kết thúc quá trình đầu tư, đưa công trình vào sử dụng, khai thác.

Tuy nhiên, thực tế công tác thanh tra, kiểm tra các chương trình, dự án ĐTC hiện nay bị phân tán và chủ yếu được thực hiện bởi cơ quan thanh tra, kiểm toán, tài chính làm giảm hiệu lực, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát ĐTC. Công tác thanh tra, kiểm tra chủ yếu được thực hiện sau khi dự án đã kết thúc và theo các chương trình, kế hoạch, chuyên đề nên khi phát hiện ra sai phạm gây thất thoát, lãng ph , tham nhũng, đầu tư không hiệu quả thì thường rơi vào tình trạng “sự đã rồi”.


Còn trong quá trình thực hiện đầu tư, trách nhiệm giám sát tập trung chủ yếu vào trách nhiệm của chủ đầu tư. Công tác giám sát của các cơ quan như Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp không được thực hiện thường xuyên, mang nặng tính hình thức, cán bộ thực hiện giám sát không chuyên trách, thiếu chuyên môn, nghiệp vụ trong quản lý ĐTC và thiếu cơ chế cụ thể để kết quả giám sát khi có phát hiện ra sai phạm thì được xử lý kịp thời. Công tác giám sát cộng đồng, giám sát độc lập, phản biện xã hội không được coi trọng đúng mức và không có cơ chế cụ thể để thực thi. Một trong điều kiện để có thể nâng cao được chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát đó là phải công khai, minh bạch về tất cả các thông tin liên quan đến dự án ĐTC ở tất cả các khâu thì hiện vẫn mang tính hình thức, không rò ràng về nội dung, thông tin công khai thiếu và không đầy đủ, những thông tin liên quan đến điều chỉnh quy mô, tổng mức đầu tư, thiết kế kỹ thuật… không được công khai trước khi thực hiện.

Để có thể nâng cao được hiệu quả ĐTC, đi đôi với biện pháp tăng cường công tác quản lý ở tất cả các khâu thì cần phải nâng cao năng lực, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và thực hiện công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình một cách thực chất, hiệu quả. Theo đó, cần phải thực hiện các giải pháp sau:

- Thứ nhất, nâng cao năng lực và tăng cường tính tập trung trong thực hiện công tác kiểm tra, giám sát ĐTC hiện đang bị phân tán, thiếu sự tập trung, do nhiều cơ quan chức năng từ Chính phủ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thanh tra Ch nh phủ, Bộ Tài ch nh…) đến Quốc hội (Kiểm toán nhà nước), Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện.

Trước mắt, kiểm toán nhà nước và các cơ quan thanh tra, thanh tra tài ch nh cần tăng cường công tác chuyên môn nghiệp vụ để thẩm định, đối chiếu, so sánh, phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật. Kiên quyết xuất toán các khoản chi sai mục đ ch, không đúng khối lượng, đơn giá, không đúng tiêu chuẩn định mức, vượt dự toán lớn. Cần thực hiện chế độ trách nhiệm vật chất, kể cả trách nhiệm đối với nhà thầu, tư vấn giám sát trong việc xác nhận thanh toán khối lượng thiếu trung thực, không đúng quy định. Việc thanh toán vốn đầu tư phải được tiến hành theo đúng quy trình và phương thức thanh toán theo tiến độ thực hiện. Làm rò trách nhiệm của từng tổ chức, cá nhân và thực hiện chế độ trách nhiệm đối với thủ


trưởng đơn vị trong quản lý ĐTC. Cá nhân, tổ chức quyết định đầu tư sai, gây lãng phí, thất thoát phải bị xử phạt hành chính, cách chức hoặc truy cứu trách nhiệm.

- Thứ hai, tăng cường giám sát, phản biện và kiểm tra, tố giác, xử lý kịp thời và nghiêm khắc các vi phạm ĐTC bằng các công cụ chế tài về tài chính và hành chính. Mở rộng hình thức, nội dung công khai và khắc phục cho được tình trạng công khai còn mang tính hình thức như hiện nay. Kiên quyết chống tham nhũng và thực hiện thường xuyên hơn trách nhiệm giải trình trong ĐTC.

- Thứ ba, công khai các thông tin, quy trình, thủ tục, danh mục dự án vận động đầu tư, nâng cao hiệu quả cơ chế “một cửa”, quy định rò về chính sách và các ràng buộc, chế tài nếu nhà đầu tư không thực hiện đúng cam kết.

- Thứ tư, đề cao trách nhiệm giám sát của Quốc hội đối với các công trình trọng điểm quốc gia, của Hội đồng nhân dân đối với các dự án đầu tư trên địa bàn; tăng cường giám sát cộng đồng, hoàn thiện cơ chế để người dân kiểm tra công việc có liên quan đến ngân sách, đất đai, tài sản của nhà nước.

Việc công khai, minh bạch về thông tin đối với các dự án ĐTC sẽ góp phần giúp cơ quan quyết định đầu tư nhận được các thông tin đóng góp, phản biện của chuyên gia, xã hội từ đó xác định được đâu là công trình cần thiết, đâu là công trình chưa cấp bách, mức chi ph đầu tư cho các công trình thế nào là hợp lý và đưa ra quyết định đúng đắn hơn, đảm bảo HQĐT.

Chính phủ cần sớm nâng cấp hoặc xây dựng mới hệ thống thông tin điện tử về kinh tế vĩ mô, về mua sắm, đầu tư công, về công tác đấu thầu. Các thông tin được nhanh chóng cập nhật và minh bạch, công khai thông tin, hạn chế lợi ích nhóm.

Minh bạch ngân sách nhà nước theo thông lệ quốc tế: Cần tăng cường tính minh bạch và phù hợp với thông lệ quốc tế trong cách trình bày và báo cáo NSNN, làm nền tảng cho việc ra quyết định ch nh sách kịp thời, đánh giá hiệu quả hoạt động dịch vụ công và ch nh sách thu, chi tiêu công, nâng cao trách nhiệm giải trình và hội nhập quốc tế.

Khuyến khích mua sắm, chi tiêu công một cách công bằng: Quá trình mua dịch vụ công của chính phủ cần phải diễn ra một cách minh bạch, cạnh tranh thị trường thông qua đấu thầu công khai, không phân biệt đơn vị cung cấp dịch vụ là tư


nhân hay nhà nước. Cần giảm thiểu các mối liên hệ trực tiếp giữa chi tiêu của chính phủ và việc thực hiện đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực đó. Khi thực hiện đấu thầu công khai thì giá cả dịch vụ sẽ theo cơ chế thị trường và chính phủ có thể tiết kiệm được nguồn vốn đầu tư.

Cần phải đẩy mạnh t nh công khai hóa, minh bạch hóa trong mọi khâu của quá trình đầu tư công. Tất cả các dự án công có quy mô lớn cần phải được phân t ch chi ph lợi ch và phải được công khai rò ràng các khoản chi ph của dự án, kết quả mong đợi, đầu ra của dự án, các nguồn tài trợ cho dự án. Sau khi dự án đầu tư công được hoàn thiện, đưa vào sử dụng, cần phải có các chương trình đánh giá, hoặc thường xuyên tái đánh giá hiệu quả của dự án.

Ch nh phủ cần hạn chế tối đa việc chỉ định thầu, thay vào đó là phải yêu cầu bắt buộc thông qua đấu thầu các dự án đầu tư công, để đảm bảo về chất lượng công trình, tiết kiệm chi ph đầu tư.

Nhà nước cần tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong quản lý và sử dụng vốn đầu tư công; nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu, của công chức trong công tác phối hợp theo dòi, kiểm tra, thanh tra và thực hiện kế hoạch. Các bộ, cơ quan từ trung ướng đến địa phương cần tăng cường chủ động tổ chức kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện kế hoạch đầu tư công. Kiên quyết xử lý nghiêm và kịp thời các tổ chức, cá nhân, lãnh đạo, cán bộ, công chức vi phạm quy định của pháp luật và cố tình cản trở, gây khó khăn, làm chậm tiến độ giao, thực hiện và giải ngân kế hoạch đầu tư công. Thay thế kịp thời những cán bộ, công chức yếu kém về năng lực, trình độ hoặc suy thoái về đạo đức nghề nghiệp, gây nhũng nhiễu, tiêu cực hoặc thao túng, chi phối trong quản lý vốn đầu tư công và công tác đấu thầu.

Tham nhũng có thể xảy ra đối với chủ thể cung cấp hàng hóa công và cũng có thể xảy ra đối với cơ quan quản lý, giám sát đầu tư công. Vì vậy, chỉ khi các đối tượng có liên quan thực hiện sự giám sát hệ thống này thì mới đảm bảo rằng hệ thống đầu tư công giảm thiểu được tham nhũng và thực sự hoạt động vì lợi ích của những người liên quan, bao gồm cả người dân. Ngoài ra, nhóm đối tượng bị ảnh hưởng/liên quan cần được tạo điều kiện để đóng góp ý kiến của mình vào quản lý đầu tư công, bao gồm cả các dự án đầu tư công. Do đó, cần có cơ chế giám sát đầu


tư công của cộng đồng, của Quốc hội, của Hội đồng nhân dân các cấp. Hiện nay việc giám sát đầu tư công của cộng đồng đã được đưa thể hiện trong Luật đầu tư công 2019. Nhưng để giám sát đầu tư công hiệu quả và khả thi, thì nhiệm vụ cần thiết là phải tạo ra được một quy trình minh bạch, có khả năng giải trình từ khâu phân bổ đầu tư cho đến khâu thực hiện đầu tư. T nh minh bạch và khả năng giải trình trong đầu tư công sẽ giúp người dân (có thể là là các cơ quan báo ch , các nhà nghiên cứu hoặc các chuyên gia độc lập) có khả năng theo dòi các hành vi của các bên thực hiện đầu tư công. Đồng thời, phải tạo cơ chế thuận lợi và đảm bảo an toàn cho người dân khi giám sát đầu tư công.

Thành lập c quan chuyên tr ch độc lập th c hiện kiểm tra gi m s t đầu tư công

Nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát ĐTC trên phạm vi cả nước, góp phần nâng cao HQĐT công cần nghiên cứu, thành lập một cơ quan đầu mối, chuyên trách có t nh độc lập cao thực hiện công tác này và điều phối các cơ quan có chức năng thanh tra, kiểm tra trong thực hiện kiểm tra, giám sát các chương trình, dự án ĐTC. Cơ quan này có chức năng giám sát mọi hoạt động liên quan đến ĐTC từ khâu phê duyệt chủ trương, quyết định đầu tư đến tổ chức thực hiện và có đủ thẩm quyền để kiến nghị, xử lý những phát hiện trong quá trình giám sát. Để đảm bảo tính khách quan, minh bạch, độc lập cơ quan này nên trực thuộc Quốc hội và chịu trách nhiệm trước Quốc hội, nhân dân về hoạt động của mình. Có thể nghiên cứu mô hình tương tự như Kiểm toán Nhà nước.

4.2.4. Tăng cường thu hút và quản lý các dự án đầu tư công t eo ìn t ức PPP

Để tăng trưởng kinh tế có hiệu quả, một trong những giải pháp đó là giảm dần tỷ trọng đầu tư công trong tổng vốn đầu tư của xã hội, đồng thời tăng cường mạnh mẽ hiệu quả và chất lượng của đầu tư công. Không nên phân bố đầu tư nhà nước vào các ngành mà khu vực tư nhân có thể đảm nhiệm và đảm nhiệm tốt, chuyển trọng tâm ra ngoài lĩnh vực kinh tế, tập trung vào phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội để tạo được ngoại ứng tích cực lan tỏa đến khu vực tư nhân, hỗ trợ khu vực này trong quá trình kinh doanh và đóng góp vào tăng trưởng kinh tế.

Xem tất cả 255 trang.

Ngày đăng: 12/07/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí