Tác Động Của Đầu Tư Phát Triển Kinh Tế Đến Tăng Trưởng Và Phát Triển


Loại đầu tư đem lại các kết quả không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế xã hội được thụ hưởng, không chỉ trực tiếp làm tăng tài sản của người chủ đầu tư mà cả của nền kinh tế chính là đầu tư phát triển.

Đầu tư phát triển đòi hỏi rất lớn nhiều loại nguồn lực. Theo nghĩa hẹp, nguồn lực sử dụng cho đầu tư phát triển là tiền vốn. Theo nghĩa rộng, nguồn lực đầu tư bao gồm cả tiền vốn, đất đai, lao động, máy móc thiết bị, tài nguyên. Như vậy khi xem xét lựa chọn dự án đầu tư hay đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển cần tính đúng tính đủ các nguồn lực tham gia.

Đối tượng của đầu tư phát triển là tập hợp các yếu tố được chủ đầu tư bỏ vốn thực hiện nhằm đạt những mục tiêu nhất định.

Kết quả của đầu tư phát triển là sự tăng thêm về tài sản vật chất (nhà xưởng, thiết bị...) và tài sản trí tuệ (trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học kỹ thuật...) và tài sản vô hình (những phát minh sáng chế, bản quyền...). Các kết quả của đầu tư góp phần làm tăng thêm năng lực sản xuất của xã hội. Hiệu quả của đầu tư phát triển phản ánh quan hệ so sánh giữa kết quả kinh tế xã hội thu được với chi phí chi ra để đạt kết quả đó. Kết quả và hiệu quả đầu tư phát triển cần được xem xét cả trên phương diện chủ đầu tư và xã hội, đảm bảo kết hợp hài hòa giữa các lợi ích, phát huy vai trò chủ động sáng tạo của chủ đầu tư, vai trò quản lý, kiểm tra, giám sát của cơ quan quản lý nhà nước các cấp. Do đó trong thực tế có những khoản đầu tư không trực tiếp tạo ra tài sản cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng lại rất quan trọng để nâng cao chất lượng cuộc sống như đầu tư cho y tế, giáo dục, xóa đói giảm nghèo...và vì mục tiêu phát triển đó cũng được xem là đầu tư phát triển.

Mục đích của đầu tư phát triển là vì sự phát triển bền vững, vì lợi ích quốc gia, cộng đồng và nhà đầu tư.

Hoạt động đầu tư phát triển là một quá trình, diễn ra trong thời kỳ dài và tồn tại vấn đề “độ trễ thời gian”. “Độ trễ thời gian” là sự không trùng khớp


giữa thời gian đầu tư và thời gian vận hành các kết quả đầu tư, đầu tư hiện tại nhưng kết quả đầu tư thường thu được trong tương lai. Đặc điểm này của đầu tư cần được quán triệt khi đánh giá kết quả, chi phí và hiệu quả hoạt động đầu tư phát triển.

Nội dung đầu tư phát triển ở phạm vi doanh nghiệp và phạm vi nền kinh tế có thể khác nhau. Trên góc độ nền kinh tế, đầu tư phát triển phải làm gia tăng tài sản cho nền kinh tế chứ không phải hiện tượng chu chuyển tài sản giữa các đơn vị.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 185 trang tài liệu này.

1.1.1.3 Đầu tư phát triển kinh tế

Trên cơ sở quan niệm về đẩu tư như trên, đầu tư phát triển kinh tế được hiểu là hoạt động chi dùng vốn cùng các nguồn lực khác trong giai đoạn hiện tại nhằm duy trì sự hoạt động và làm tăng thêm tài sản (các tài sản vật chất hữu hình và tài sản vô hình) và giá trị khác của nền kinh tế, tạo thêm việc làm và nâng cao đời sống của các bộ phận dân cư.

Đầu tư phát triển kinh tế Thủ đô Viêng Chăn giai đoạn 2007-2011 và tầm nhìn đến 2020 - 3

Với khái niệm này, đầu tư phát triển kinh tế được xem xét ở các giác độ: Thứ nhất, hoạt động đầu tư phát triển kinh tế là hoạt động chi dùng vốn cho phát triển kinh tế. Vốn đầu tư phát triển kinh tế không chỉ giới hạn trong phạm vi vốn ngân sách mà nó bao gồm cả vốn của các thành phần kinh tế khác... do vậy, khi đánh giá hiệu quả đầu tư phát triển kinh tế cũng không giới hạn ở việc xem xét hiệu quả của một nguồn vốn nhất định.

Thứ hai, mục tiêu của đầu tư phát triển kinh tế. Một trong những mục tiêu của đầu tư phát triển kinh tế là nhằm duy trì hoạt động đầu tư và làm tăng thêm tài sản, giá trị kinh tế cho nền kinh tế. Các giá trị kinh tế bao gồm cả tài sản vật chất, tài sản trí tuệ, hữu hình và vô hình, cố định và lưu động, cho cả hoạt động sản xuất kinh doanh và phi sản xuất kinh doanh.

Thứ ba, nội dung đầu tư phát triển kinh tế. Do, mục đích đầu tư phát triển kinh tế là duy trì hoạt động đầu tư và làm tăng giá trị kinh tế, tạo ra việc


làm và nâng cao đời sống của các tầng lớp dân cư, nên nội dung đầu tư phát triển kinh tế bao gồm nhiều lĩnh vực như đầu tư phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư xây dựng cơ bản, đầu tư cho khoa học công nghệ...

Luận án nghiên cứu trong phạm vi quản lý nhà nước về đầu tư phát triển kinh tế, do vậy nội dung nghiên cứu về đầu tư phát triển kinh tế giới hạn trong các vấn đề như lượng vốn đầu tư theo thành phần kinh tế, khu vực kinh tế, nguồn đầu tư, hình thức quản lý và theo ngành kinh tế.

1.1.1.4 Đầu tư phát triển kinh tế địa phương

Cũng từ quan niệm đầu tư và đầu tư phát triển đề cập ở trên, đầu tư phát triển kinh tế địa phương được hiểu là hoạt động chi dùng vốn cùng các nguồn lực khác trong từng giai đoạn nhằm khai thác một cách hợp lý các nguồn lực địa phương, làm tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế địa phương, góp phần làm tăng trưởng kinh tế, tạo thêm việc làm và nâng cao đời sống của các bộ phận dân cư trong địa bàn địa phương quản lý. Như vậy, đầu tư phát triển kinh tế địa phương được hiểu là toàn bộ các hoạt động chi vùng vốn của Trung ương và địa phương nhằm đảm bảo thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế địa phương trong từng giai đoạn, từng thời kì.

Có thể hiểu "đầu tư phát triển kinh tế địa phương" trên các nội dung

sau:

- Đầu tư phát triển kinh tế địa phương trước hết bao hàm các hoạt động

đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế địa phương. Nghĩa là đầu tư phải đảm bảo phát triển kinh tế thể hiện ở khía cạnh mỗi suất đầu tư tăng lên mang lại mức tăng lượng của cải (tài sản) tính bằng hiện vật, hay giá trị trong một thời kỳ nhất định. Những chỉ tiêu quan trọng nhất để đo mức độ phát triển kinh tế do đầu tư mang lại có thể là: ICOR, GDP, tốc độ tăng GDP; GDP/người; tốc độ tăng GDP/người... Mức độ phát triển này phải được duy trì theo thời gian, dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động và hiệu


quả cao, chứ không phải chỉ dựa trên cơ sở gia tăng lượng vốn đầu tư một cách thuần tuý.

- Đầu tư phát triển kinh tế địa phương là hoạt động đầu tư, theo đó bao hàm đầu tư phát triển theo các ngành nghề, lĩnh vực tạo ra giá trị sản phẩm hàng hóa hoặc phi hàng hóa tại địa phương nhằm khai thác các nguồn lực, phát huy thế mạnh và mối liên kết ngành trong và ngoài địa phương. Sự thay đổi cơ cấu đầu tư phát triển kinh tế địa phương phản ánh mức độ thay đổi của phương thức sản xuất theo hướng ngày càng hiện đại và tính hiệu quả của đầu tư tại nền kinh tế địa phương. Những ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh có hiệu quả, lĩnh vực kinh tế có năng suất lao động cao, có giá trị gia tăng cao tại địa phương sẽ hấp dẫn và thu hút đầu tư phát triển kinh tế nhanh và nhiều hơn các ngành khác.

- Đầu tư phát triển kinh tế địa phương cũng bao hàm hai khía cạnh đầu tư tạo ra của cải hàng hóa hoặc đầu tư phi tạo ra hàng hóa của địa phương. Đầu tư nhằm làm tăng sản lượng hàng hóa dựa trên thế mạnh của địa phương là loại đầu tư có tầm quan trọng đối với bất cứ địa phương nào, theo đó một đơn vị vốn đầu tư được bỏ ra nhằm mang lại một lượng giá trị sản phẩm hàng hóa lớn hơn nhằm đáp ứng nhu cầu dân cư và xuất khẩu sang các địa bàn khác. Đầu tư phi hàng hóa cũng gắn liền với đầu tư tạo hàng hóa, bao hàm khía cạnh tạo ra các giá trị tinh thần, giá trị hỗ trợ hoặc gián tiếp tạo ra giá trị hàng hóa. Cái đích của đầu tư phát triển kinh tế là tạo ra của cải hàng hóa nhằm phục vụ con người. Mức sống cũng được hiểu theo nghĩa rộng không chỉ là thu nhập cao hay thiếu đói mà còn bao hàm hàng loạt vấn đề như nước sạch, quyền lợi học tập, các vấn đề bảo vệ bà mẹ trẻ em, chữa bệnh, nhà ở... Đầu tư cho các lĩnh vực này cũng gọi là đầu tư phát triển kinh tế.

Cùng với mức sống còn vấn đề bình đẳng; vấn đề xã hội văn minh (con người sống tin cậy, hài hoà, xã hội an toàn...). Do đó, đầu tư phi hàng hóa là


loại đầu tư có vai trò đặc biệt quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu bậc cao của con người.

- Đầu tư phát triển kinh tế địa phương trong giai đoạn hiện nay phải đi liền và đảm bảo việc phát triển bền vững, bảo vệ môi trường, bảo tồn và tái sinh các hệ sinh thái; bảo đảm chất lượng môi trường địa phương cho hiện tại và cho tương lai; bảo đảm các nguồn lực, cơ sở vật chất hiện tại và tương lai. Những yêu cầu này phải được quán triệt trong xây dựng và thực thi các kế hoạch, dự án đầu tư cụ thể trong từng thời kì, từng giai đoạn.

Với khái niệm đầu tư phát triển kinh tế địa phương như trên, các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế địa phương được hiểu với những quan niệm khác nhau.

- Hoạt động đầu tư phát triển kinh tế địa phương bao gồm các hoạt động đầu tư cho sản xuất, tiêu thụ hàng hòa, xây dựng lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp trong vùng, nhằm tạo việc làm và mở rộng thu nhập. Các hoạt động này có sự tham gia hỗ trợ của chính quyền địa phương, các hiệp hội doanh nghiệp, các doanh nghiệp, các đối tượng khác nhằm khắc phục các cản trở và giảm chi phí cho doanh nghiệp, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, khai thác có hiệu quả các lợi thế đang có và tạo lập các lợi thế mới cho địa phương và doanh nghiệp vùng đó.

- Hoạt động đầu tư phát triển kinh tế địa phương bao gồm các hoạt động đầu tư và khuyến khích đầu tư tại một vùng, lãnh thổ địa phương nhất định. Thực chất của các hoạt động là thu hút các chủ đầu tư ngoài vùng vào đầu tư tại địa phương (quan niệm này có lẽ không đầy đủ bởi chưa tính đến hoạt động đầu tư của các chủ đầu tư đang sống hoặc đang là chủ các doanh nghiệp đang hoạt động tại địa phương).

- Hoạt động đầu tư phát triển kinh tế địa phương bao gồm tất cả các hoạt động đầu tư nhằm cải thiện và tăng phúc lợi của dân cư địa phương. Đầu


tư phát triển kinh tế bao hàm ý nghĩa đầu tư nhằm cải thiện phúc lợi của nhân dân. Tuy nhiên, để cải thiện phúc lợi dân cư có thể còn do nhiều loại hoạt động ở các lĩnh vực khác nhau tác động, trong đó đầu tư phát triển kinh tế chỉ là một loại hoạt động.

- Hoạt động đầu tư phát triển kinh tế địa phương cũng bao gồm: hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp nhằm tăng cường khai thác các tiềm năng lợi thế sẵn có, tạo lập các lợi thế mới, hoạt động đầu tư của chính quyền và các tổ chức liên quan nhằm tạo lập môi trường cạnh tranh, thúc đẩy các doanh nghiệp chủ động, sáng tạo trong kinh doanh.

Nghiên cứu quan niệm trên cho thấy các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế địa phương phải bao gồm các hoạt động sau: hoạt động điều tra, nghiên cứu cơ hội đầu tư để có phương án đầu tư phát triển các ngành nghề kinh doanh một cách có hiệu quả; các hoạt động đầu tư khai thác có hiệu quả các lợi thế hiện có, đầu tư tạo lập các lợi thế cạnh tranh mới; đầu tư tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, khuyến khích đầu tư (từ tất cả các nguồn) phát triển doanh nghiệp tại địa phương; các hoạt động phối hợp hài hoà trong xây dựng kế hoạch, cung cấp thị trường tổ chức phối hợp thực thi kế hoạch.

Các tác nhân tham gia các hoạt động trên là: chính quyền, các doanh nghiệp, các hội nghề nghiệp, khu vực tư nhân và đối tác khác. Với tất cả các hoạt động trên, để đạt hiệu quả cao cần có sự quản lý nhà nước gọi là quản lý nhà nước về đầu tư phát triển kinh tế địa phương.

1.1.2. Tác động của đầu tư phát triển kinh tế đến tăng trưởng và phát triển

1.1.2.1 Tác động đến tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế

Tác động đến cầu: Để tạo ra sản phẩm cho xã hội, trước hết cần đầu tư, đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm từ 24 đến 28% trong cơ cầu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Với tổng cầu, tác động


của đầu tư thể hiện rõ trong ngắn hạn, khi tổng cung và các yếu tố khác không thay đổi gia tăng đầu tư (I) làm cho tổng cầu (AD) tăng.

AD = C + I + G + X + M

Trong đó:


I: Đầu tư


X: Xuất khẩu

G: Tiêu dùng chính phủ M: Nhập khẩu C: Tiêu dùng


P

S

E1

E0

S’

E2

D

D’

Q0 Q1 Q2

Biểu đồ 1.1. Tác động của đầu tư đến tổng cung và tổng cầu


Theo đồ thị đường cầu dịch chuyển từ D sang D’, kéo sản lượng cân bằng tăng từ Q0 sang Q1 và giá cả đầu vào của đầu tư tăng từ P0 lên P1, điểm cân bằng dịch chuyển từ E0 đến E1.

Tác động đến tổng cung: Tổng cung của nền kinh tế gồm 2 nguồn chính là cung trong nước và cung từ nước ngoài. Cung trong nước thể hiện qua phương trình sau:

Q = F(K,L,T,R.....)

K: Vốn đầu tư L: Lao động R: Nguồn tài nguyên T: Công nghệ Như vậy tăng qui mô vốn đầu tư là nguyên nhân trực tiếp làm tăng tổng

cung của nền kinh tế, nếu các yếu tố khác không đổi. Mặt khác, tác động của vốn đầu tư còn được thực hiện thông qua hoạt động đầu tư nâng cao chất


lượng nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ...do đó đầu tư lại gián tiếp làm tăng tổng cung của nền kinh tế[16].

1.1.2.2 Tác động đến tăng trưởng kinh tế

Đầu tư vừa tác động đến tốc độ tăng trưởng vừa tác động đến chất lượng tăng trưởng. Tăng qui mô vốn đầu tư và sử dụng vốn đầu tư hợp lý là những nhân tố rất quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư, tăng năng suất nhân tố tổng hợp, tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH-HĐH, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế....do đó nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.

Biểu hiện của mối quan hệ giữa đầu tư phát triển với tăng trưởng kinh tế thể hiện ở công thức tính hệ số ICOR (Incremental Capital Output Ratio- tỷ số gia tăng của vốn so với sản lượng: là tỷ số giữa qui mô đầu tư tăng thêm với mức gia tăng sản lượng, hay là suất đầu tư cần thiết để tạo ra một đơn vị sản lượng (GDP) tăng thêm).

ICOR

I Vphtd


Trong đó

GDP ( VA )

IVphtd: là vốn đầu tư kỳ trước có tính đến giả định độ trễ 1 năm

GDP : là giá trị sản lượng gia tăng.

Từ công thức trên cho thấy: Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vồn đầu tư, theo các nhà nghiên cứu kinh tế, muốn giữ tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn định thì tỷ lệ đầu tư phải chiếm khoảng trên 25% so với GDP, tùy thuộc vào GDP của mỗi nước[16].

1.1.2.3 Tác động đến việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế

Cơ cấu kinh tế là cơ cấu của tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, có quan hệ chặt chẽ với nhau, được biểu hiện cả về mặt chất và mặt lượng tùy thuộc mục tiêu của nền kinh tế.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 07/10/2022