của các chủ sở hữu, chịu sự kiểm soát của các chủ sở hữu và có trách nhiệm giải trình đối với các chủ sở hữu còn lại. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều điểm khác biệt trong cơ chế quản lý và quản trị tập đoàn, đặc biệt là trong các nội dung kiểm soát và trách nhiệm giải trình. Nếu như HĐQT của các tập đoàn trên thế giới là đại diện sở hữu cho các cổ đông, chịu sự giám sát chặt chẽ của các cổ đông, chủ tịch HĐQT chịu trách nhiệm báo cáo với các cổ đông thì trong mô hình TĐKT ở Việt Nam, trách nhiệm giải trình và cơ chế giám sát chưa thật sự chặt chẽ, chưa quy định các thành viên HĐQT phải chịu trách nhiệm cá nhân hoặc liên đới nếu họ vi phạm các quy định như: quản lý sai, thiếu thận trọng, lạm dụng công quỹ, trả lương quá mức...chưa ràng buộc trách nhiệm hình sự nếu vi phạm các quy định như trả cổ tức không đúng thủ tục, cung cấp báo cáo không đúng sự thật, sử dụng cổ tức sai mục đích hoặc bỏ phiếu đi ngược lại lợi ích chung của tập đoàn, vì mục đích cá nhân.
So sánh mô hình của TĐKT nước ngoài và TĐKT Việt Nam ta thấy, không chỉ trách nhiệm giải trình không được nâng cao mà khả năng kiểm soát các chủ sở hữu đối với HĐQT cũng có nhiều điểm bất cập. Trong mô hình TĐKT ở Việt Nam hiện nay, các bộ ngành liên quan chịu trách nhiệm kiểm soát hoạt động của HĐQT trên những nội dung được Thủ tướng phân công sẽ dẫn đến tình trạng có nhiều cơ quan cùng chịu trách nhiệm nhưng không có cơ quan nào trịu trách nhiệm đến cùng nếu như TĐKT hoạt động không hiệu quả, HĐQT sai sót trong quản lý và có thể lặp lại những bất cập trong các TCT trước đây. Việc phân định quyền của chủ sở hữu và quyền quản lý trong các TĐKT ở Việt Nam chưa thật rõ ràng dẫn đến tình trạng HĐQT chỉ chịu trách nhiệm chung chung, không buộc HĐQT phải chịu trách nhiệm trước một đại diện chủ sở hữu cụ thể: Vốn chịu trách nhiệm trước Bộ Tài chính, nhân sự chịu trách nhiệm trước Bộ Nội vụ, chiến lược, kế hoạch chịu trách nhiệm trước Bộ Kế hoạch và Đầu tư...và chịu trách nhiệm chung trước Thủ tướng Chính phủ.
CTC
Cổ đông (Chính phủ, cá nhân, pháp nhân)
HĐQT
Tổng giám đốc
CTC
HĐQT
Trách nhiệm giải trình
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Trạng Phát Triển Mô Hình Tập Đoàn Kinh Tế Ở Việt Nam
- Các Tct Tính Theo Ngành Nghề, Lĩnh Vực ( Đến 1998)
- Tổng Lợi Nhuận Trước Thuế : 76.329 Tỉ Đồng, Đạt 53,5% Kế Hoạch, Tăng 72% So Với Cùng Kỳ Năm 2007. Trong Đó, 18 Tập Đoàn, Tổng Công Ty 91 Đạt 68.956
- Quan Điểm Và Giải Pháp Phát Triển, Nâng Cao Vai Trò Của Các Tập Đoàn Kinh Tế
- Lựa Chọn Mô Hình Và Hoàn Thiện Cấu Trúc Nội Bộ
- Mô hình tập đoàn kinh tế Việt Nam - Hiện trạng và xu hướng phát triển trong thời gian tới - 11
Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.
Kiểm soát
TĐKT nước ngoài TĐKT Việt Nam
Nhà nước
Bầu
Chỉ định
CTC
CTC
CTC
CTC
Tổng giám đốc
Hình 2.2: So sánh mô hình của TĐKT nước ngoài và TĐKT Việt Nam
2.5. Đánh giá chung
2.5.1. Những kết quả ban đầu hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế từ các tổng công ty 91
Từ khi thành lập đến nay, mô hình các tập đoàn đã tạo dựng và phát huy được sức mạnh tổng thể, lợi thế tối đa hóa lợi nhuận và nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của tập đoàn nói chung và các đơn vị thành viên nói riêng. Quan hệ giữa tập đoàn và các đơn vị thành viên dần được hình thành trên cơ sở quan hệ về kinh tế, về sở hữu giữa Công ty mẹ - Tập đoàn và các
công ty con, công ty liên kết. Bên cạnh đó, tư duy trong quản lý, điều hành cũng được thay đổi, lề lối làm việc đã được đổi mới.
- Cơ chế tài chính mới đã tạo điều kiện cho các tập đoàn phát triển mạnh tương xứng với những tiềm năng và thế mạnh của từng tập đoàn và tạo điều kiện cho các tập đoàn trong việc huy động vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh, trong việc thu xếp vốn cho các dự án của các công ty con, phát hành trái phiếu, hợp tác quốc tế, đầu tư ra nước ngoài và thu hút đầu tư nước ngoài.
- Mô hình tổ chức công ty mẹ - công ty con được áp dụng cho không những ở tập đoàn mà tại một số công ty con của tập đoàn (cấp tổng công ty) đã tạo điều kiện để các doanh nghiệp này phát triển cả về quy mô tổ chức và hiệu quả hoạt động thể hiện qua tăng trưởng của sản lượng, doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, thu nhập của người lao động và cổ tức của các cổ đông.
- Quy mô của các TCT không ngừng mở rộng: Nếu như quy định trong Quyết định 91/TTg với tối thiểu 7 đơn vị thành viên đối với các TCT 91 thì đến nay, bình quân mỗi TCT 91 đã có số đơn vị thành viên gấp 5 lần. Tính đến khi có Quyết định thành lập, tập đoàn Điện lực Việt Nam có 6 công ty trách nhiêm hữu hạn (TNHH) một thành viên do CTM sở hữu 100% vốn điều lệ, 4 công ty truyền tải điện, 9 CTCP, 6 công ty liên kết và 5 đơn vị sự nghiệp [28,tr.7]. Tương tự tập đoàn Dệt may Việt Nam có 9 đơn vị hạch toán phụ thuộc CTM, 10 công ty do CTM nắm giữ 100% vốn điều lệ, 24 công ty do tập đoàn nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ và 7 đơn vị sự ngiệp [29, tr.40]. Tập đoàn Than-Khoáng sản Việt Nam có 6 CTC do CTM nắm giữ 100% vốn điều lệ, 46 CTC do CTM nắm giữ trên 50% vốn điều lệ, 4 công ty do CTM nắm giữ dưới 50% vốn điều lệ và 3 trường đào tạo nghề [26, tr7].
Với quy mô lớn, các TCT 91 thu hút lượng lao động rất lớn so với các loại hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tế quốc dân. Năm 2007, số lao động trong các TCT được xây dựng theo mô hình tập đoàn tương ứng là: Viễn thông có 93.784 lao động; Điện lực: 83.942 lao động; Dầu khí: 15.064 lao động; Dệt may: 106.071 lao động; Công ngiệp tàu thuỷ: 24.753 lao động và Than: 99.330 lao động [7].
- Môi trường kinh doanh ngày càng thuận lợi cho hình thành và phát triển các TĐKT. Các loại thị trường từng bước được hoàn thiện và đồng bộ,
một số thị trường chủ yếu như vốn, lao động, khoa học công nghệ...phát triển mạnh trong những năm gần đây, thị trường chứng khoán có bước phát triển cả về quy mô và chiều sâu; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, cơ chế quản lý không ngừng đổi mới và hoàn thiện, đã đáp ứng những yêu cầu thực tiễn đặt ra; khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh, là một trong những động lực tăng trưởng; hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, một mặt tạo cơ hội cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường, đa dạng hoá sản phẩm...mặt khác đặt ra những thách thức về áp lực cạnh về nguy cơ mất thị phần, bị thôn tính hay phá sản. Thách thức đó buộc các doanh nghiệp phải tăng cường hợp tác, liên kết nhằm tăng quy mô, nâng cao năng lực cạnh tranh, đổi mới phương thức kinh doanh, nâng cao năng lực quản lý...tạo nền tảng cho các TĐKT ra đời.
Như vậy, hình thành và phát triển các TĐKT từ các TCT 91 ở Việt Nam đã có những cơ sở, những mầm mống, tiền đề nhất định. Tuy nhiên, ngoài môi trường pháp lý và môi trường kinh doanh chung, các yếu tố bên trong của các TCT 91 có khoảng cách đáng kể. Nếu như một số tổ hợp như Điện lực, Dầu khí, Bưu chính viễn thông, Xi măng...đã hội tụ cơ bản các yếu tố ban đầu thì ở một số TCT khác các yếu tố đó mới đang định hình, chưa xuất hiện. Vấn đề không nằm ở tên gọi hay quyết định hành chính mà ở thực lực, ở sức mạnh nội tại, ở khả năng cạnh tranh và năng lực điều hành, ở thương hiệu và chất lượng sản phẩm...nhằm tạo ra lợi nhuận lớn nhất và từng bước xây dựng các TĐKT mạnh ở Việt Nam.
2.5.2. Một số hạn chế
Bên cạnh những kết quả ban đầu, việc phát triển mô hình tập đoàn ở Việt Nam còn gặp nhiều trở ngại, bao gồm từ phía các TCT, từ môi trường pháp lý và môi trường kinh doanh. Nói cách khác, hàng loạt thách thức đặt ra trong quá trình hình thành và phát triển mô hình TĐKT ở Việt Nam.
-Thứ nhất, chưa giải quyết thấu đáo vấn đề về sự minh bạch trong sở hữu.
Đây là nội dung mang tính lịch sử do quá trình chuyển đổi từ LHXN thành các TCTNN theo Quyết định 90/TTg và 91/TTg. Vốn của TCT là vốn của Nhà nước, thuộc sở hữu toàn dân. Trong mô hình TCTNN, Tổng Giám đốc, HĐQT là đại diện chủ sở hữu, được quyền chi tiền không phải do họ bỏ
ra đầu tư. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến tình trạng tham nhũng, lãng phí trong quản lý hoặc kém hiệu quả trong đầu tư.
Quan hệ phức tạp về mặt sở hữu dẫn đến cơ chế trách nhiệm cũng chưa được phân định rõ ràng, kể cả ở tập đoàn và các cơ quan quản lý Nhà nước. Trong bối cảnh đó, Thủ tướng Chính phủ phải giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến các TĐKT như bổ nhiệm HĐQT, chấp thuận để HĐQT thực hiện một số công việc như ký hợp đồng bổ nhiệm, miễn nhiệm với Tổng Giám đốc, phê duyệt mục tiêu, chiến lược...
-Thứ hai, quy mô vốn không đồng đều, trình độ tích tụ, tập trung vốn chưa cao.
Xét về quy mô, vốn trung bình trong các TCT 91 hiện nay rất lớn nếu so sánh với các DNNN độc lập. Tuy nhiên, nếu so sánh quy mô vốn của 3 TĐKT lớn nhất Việt Nam hiện nay là Điện lực, Dầu khí và Bưu chính viễn thông với quy mô vốn trung bình của 500 TĐKT lớn nhất thế giới sẽ thấy sự khác biệt là quá lớn. Chỉ tính riêng doanh thu năm 2005 của tập đoàn Wal- Mart Stores là 287.989 tỷ USD, năm 2006 là 315.654 tỷ USD, lợi nhuận năm 2005 đạt 10.267 tỷ USD và năm 2006 là 11.231 tỷ USD [18].
Tốc độ tăng trưởng quy mô vốn ở các TCT 91 khá cao nhưng không phải thông qua khả năng tích tụ, tập trung vốn hoặc huy động vốn qua thị trường chứng khoán như các tập đoàn trên thế giới từng làm mà được sự đầu tư mạnh từ phía Nhà nước. Do đó, rất khó có thể đánh giá chất lượng và tính bền vững của tốc độ tăng trưởng này.
Xét về tích tụ, tập trung vốn biểu hiện ở quy mô và tốc độ tăng trưởng có thể thấy có những khác biệt rất lớn giữa các TCT 91. Nói cách khác, ở các TCT 91, sự chín muồi của các điều kiện về tích tụ, tập trung vốn không giống nhau. Điều này chỉ ra rằng không thể xây dựng tất cả các TCT 91 thành TĐKT mà cần được lựa chọn kỹ lưỡng trước khi tiến hành chuyển đổi.
Quy mô vốn nhỏ và tăng trưởng chủ yếu do đầu tư của Nhà nước, trình độ tích tụ, tập trung thấp thực sự là những thách thức trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Với mục tiêu xây dựng TĐKT ngang tầm khu vực, ngân sách Nhà nước không thể tiếp tục đầu tư với quy mô ngày càng lớn, do đó các kênh huy động vốn cần được các TCT, TĐKT tính đến khi mà yếu tố này càng trở nên quan trọng.
-Thứ ba, thể chế, chính sách pháp luật về TĐKT chưa hoàn thiện.
Quy định số 91/TTg ban hành năm 1994 là văn bản đầu tiên xác định các tiêu chí về TĐKT, nhưng chưa đề cập đầy đủ bản chất và đặc thù về mô hình tổ chức quản lý và hoạt động của TĐKT, dẫn đến hoạt động của các TCT chưa thể phát triển theo mô hình các TĐKT. Nhận thức được những hạn chế về khuôn khổ pháp lý cho việc hình thành các TĐKT, Nhà nước đã ban hành Luật Doanh nghiệp nhà nước (năm 2003), Luật Doanh nghiệp (năm 2005) và Nghị định số 153/2004 NĐ-CP về TCT nhà nước và chuyển đổi TCT nhà nước thành mô hình công ty mẹ - công ty con. Thế nhưng, ngay cả những khuôn khổ pháp lý mới này cũng chỉ có thể được coi như tiền đề pháp lý ban đầu cho việc chuyển đổi các TCT 91 thành các TĐKT nhà nước, vì nhiều nội dung quan trọng của mô hình tập đoàn vẫn chưa được làm rõ, chẳng hạn như địa vị pháp lý, chế độ tài chính, mô hình quản trị nội bộ của tập đoàn cũng như mối quan hệ, quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của các thành viên trong tập đoàn.
Việc Chính phủ ban hành Nghị định số 139/2007/NĐ-CP, Nghị định số 141/2007/ NĐ-CP đã bổ sung thêm một số vấn đề về các TĐKT. Theo đó, TĐKT được hiểu là nhóm công ty có tư cách pháp nhân độc lập, được hình thành trên cơ sở tập hợp, liên kết thông qua đầu tư, góp vốn... Như vậy, hạt nhân của tập đoàn là công ty mẹ và xoay quanh nó là các công ty thành viên. Nhưng trong khi các công ty thành viên có tư cách pháp nhân thì công ty mẹ lại không có tư cách pháp nhân, nên việc quy định một khung khổ pháp lý tổ chức của một nhóm công ty trong bối cảnh doanh nghiệp được quyền tự quyết về các mối liên hệ có thể trở thành khiên cưỡng, thậm chí có thể kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp.
Mặt khác, hiện nay chúng ta đã có nhiều doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp mạnh, tích hợp, liên kết với nhau để hoạt động dưới bộ máy chung, một thương hiệu chung tạo ra sự phát triển vượt bậc. Đây chính là sự liên kết, hình thành mô hình TĐKT tư nhân. Tiêu biểu cho xu thế này là một số doanh nghiệp như FPT, Đồng Tâm, Kinh Đô, Hòa Phát... Tuy nhiên, khó khăn nhất đối với các TĐKT non trẻ này là chưa được pháp luật thừa nhận một cách đầy đủ. Các tập đoàn vẫn phải mang một cái tên không "chính danh" như "Công ty cổ phần tập đoàn" hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn tập đoàn. Luật Doanh nghiệp (năm 2005)
vẫn chưa tạo hành lang pháp lý cho việc hình thành các TĐKT tư nhân. Hiện tại các TĐKT vẫn được xếp chung với nhóm các công ty.
Như vậy, việc thừa nhận các TĐKT vẫn chỉ dừng lại ở mức độ chủ trương, hệ thống quy định chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của các tập đoàn, từ đó cũng chưa thể có những nghiên cứu sâu, cụ thể để thúc đẩy sự phát triển của mô hình mới này. Chính vì thế, những nhân tố mới của nền kinh tế vẫn đang phải hoạt động một cách mò mẫm và chưa có những định hướng mang tầm vĩ mô.
Một điều nữa cần lưu ý là, do pháp luật về TĐKT chưa hoàn thiện nên dẫn tới cơ chế quản lý của TĐKT hiện nay còn chồng chéo, chưa rõ ràng, còn hiện tượng “chen chân” nhau giữa quản lý nhà nước và cơ quan chủ quản.
-Thứ tư, được bảo hộ, độc quyền nên một số tập đoàn đã đa dạng hoá ngành nhề kinh doanh, lấn sân sang các lĩnh vực kinh doanh khác.
Trong thế giới toàn cầu hóa ngày nay, sự thành công của một công ty phụ thuộc vào khả năng tham gia vào một chuỗi cung ứng toàn cầu có tính phụ thuộc và tương hỗ. Thế nhưng, các TĐKT nhà nước ở Việt Nam mới chỉ "quanh quẩn" trong thị trường nội địa mà chưa chuẩn bị đủ tinh thần ra "biển lớn" để đối đầu với "sóng to gió lớn" của cạnh tranh quốc tế. Từ tâm lý này dẫn đến tình trạng các tập đoàn đầu tư vốn và mở rộng ngành nghề theo "chiều ngang".
Việc mở rộng đầu tư vào các ngành ít liên quan đến ngành kinh doanh chính như vậy sẽ làm phân tán nguồn lực, hiệu quả không cao và chứa đựng rủi ro lớn. Ví dụ, nếu các tập đoàn, TCT kiểm soát một số ngân hàng, sau đó sử dụng ngân hàng này để tài trợ cho kế hoạch mở rộng của mình, nếu không có hệ thống kiểm soát tốt, phân tích rủi ro tốt thì điều này sẽ dẫn tới lạm dụng khoản vay và đầu tư quá mức của các thành viên tập đoàn. Chưa kể, cùng với sự tăng liên tục về số lượng công ty con, công ty cháu, rồi công ty liên kết, đồng thời sở hữu chéo của nhau, tất yếu sẽ hình thành những nhóm đặc quyền liên kết với nhau chặt chẽ và tác động trở lại tới chính sách của các bộ, ngành theo hướng có lợi cho nhóm. Hơn thế, việc mở rộng hoạt động của các tập đoàn còn đi ngược lại chủ trương của Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước sẽ chỉ tập trung vào những lĩnh vực thiết yếu đối với nền kinh tế và an sinh xã hội. Có thể thấy, sự bành trướng quá nhanh và liên kết ngày càng chặt chẽ của các TĐKT nhà nước sẽ làm cho sự kiểm soát của Nhà nước đối với các
TĐKT trở nên khó khăn. Cơn bão lạm phát vừa qua là một minh chứng cho điều đó.
2.5.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Nguyên nhân của những hạn chế ở mô hình TĐKT Việt Nam có thể được lý giải ở nhiều góc độ khác nhau tuỳ theo cách tiếp cận. Nhìn một cách tổng thể, những nguyên nhân này bao gồm cả chủ quan và khách quan, cả yếu tố bên trong và bên ngoài.
- Nhóm nguyên nhân từ bản thân các TĐKT: Nguyên nhân đầu tiên là đội ngũ cán bộ: Hiện chưa có tiêu chuẩn về năng lực, trình độ phẩm chất cho các cán bộ quản lý cấp cao. Cơ chế bổ nhiệm hiện nay khá chặt chẽ nhưng quy trình bổ nhiệm gần giống như bổ nhiệm công chức, chưa phải dựa trên những nguyên tắc lựa chọn doanh nhân. Chủ sở hữu giao cho đội ngũ quản lý thay mặt Nhà nước quản lý lượng vốn lớn nhưng thiếu cơ chế giám sát chặt chẽ và trách nhiệm giải trình. Nguyên nhân này dẫn đến hiện tượng móc ngoặc, thông đồng để chuyển vốn, tài sản Nhà nước về tay cá nhân thông qua các hợp đồng mang tính “thân hữu” như trường hợp Linkton và Điện lực Hồ Chí Minh.
Nguyên nhân thứ hai là quản trị doanh nghiệp còn lỏng lẻo. Nhà nước với tư cách chủ sở hữu chung nhưng không có công cụ giám sát tài sản của mình. Trong một số trường hợp, tài sản nằm ở đâu, có bao nhiêu, tăng hay giảm...mà chủ sở hữu và người đại diện chủ sở hữu vẫn không biết. Quyền của chủ sở hữu, trách nhiệm của người quản lý đã từng bước được xác lập nhưng vẫn thiếu một hệ thống thông tin thông suốt. Mặc dù có nhiều cơ quan đại diện chủ sở hữu, nhiều cơ quan quản lý Nhà nước tham gia quản lý phần vốn của Nhà nước trong TĐKT nhưng đó không phải là mô hình quản trị hiện đại, chuẩn mực. Quản trị lỏng lẻo một mặt không tạo áp lực cần thiết đối với các TĐKT, mặt khác là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng tham nhũng, lãng phí, lạm dụng quyền lực để trục lợi cá nhân...
Nguyên nhân thứ ba là trình độ khoa học công nghệ, trình độ quản lý yếu kém. Kết quả đạt được của các TĐKT giai đoạn vừa qua một mặt là thuận lợi từ thị trường chưa được khai phá, mặt khác chúng kiểm soát hầu hết các ngành công nghiệp và dịch vụ quan trọng. DNNN nói chung và các TĐKT chưa đầu tư tương xứng cho hoạt động khoa học công nghệ và phát triển nhân