Mô Tả Một Số Nghiên Cứu Về Hiệu Quả Hoạt Động Của Ngân Hàng Ở Việt Nam


(ii) Phương pháp hồi quy gộp (Pooled Ordinary Least Squares – POLS) được sử dụng để ước lượng tham số cho các biến có tác động đến hiệu quả NH. Chẳng hạn, Gul & cộng sự (2011) nhận định rằng HQHĐ của các NH tỷ lệ thuận với quy mô VCSH, tổng tài sản, dư nợ cho vay, tiền gửi, tăng trưởng kinh tế, lạm phát và mức vốn hóa thị trường. POLS là phương pháp hồi quy dữ liệu bảng đơn giản nhất với các giả định nghiêm ngặt. Tuy nhiên, ước lượng POLS rất dễ mắc những khuyết tật như tự tương quan, phương sai sai số thay đổi và biến nội sinh dẫn đến những kết quả ước lượng chệch, không vững và thường được thay thế bằng những kiểm định khác hiệu quả hơn (Staikouras & Wood, 2004; Goddard & cộng sự, 2004).

(iii) Phương pháp ước lượng mô hình tác động cố định (Fixed Effects Model – FEM) và mô hình tác động ngẫu nhiên (Random Effects Model – REM) được sử dụng bởi Sufian & Chong (2008), Liu & Wilson (2010), Sufian (2011), Bandaranayake & Jayasinghe (2013), Staikouras & Wood (2004), Francis (2013) và Samad (2015). Khác với phương pháp POLS, mô hình FEM và REM tuy cũng ước lượng tham số cho các biến quyết định hiệu quả NH nhưng có thể tách ảnh hưởng của các đặc điểm riêng biệt (không đổi theo thời gian) của mỗi NH ra khỏi các biến độc lập để có thể ước lượng những tác động thực của các biến độc lập đến biến phụ thuộc. Dựa trên kết quả của kiểm định Hausman, các tác giả tiến hành lựa chọn phương pháp ước lượng POLS, FEM hay REM cho phù hợp với mô hình nghiên cứu.

(iv) Phương pháp ước lượng mô hình GMM (General Method of Moments) được dùng để ước lượng dữ liệu bảng động tuyến tính trong nghiên cứu của Athanasoglou & cộng sự (2008), Dietrich & Wanzenried (2011), Hoffmann (2011), Chronopoulos & cộng sự (2015), Goddard & cộng sự (2004), Pasiouras & Kosmidou (2007), Goddard & cộng sự (2013), Perera & cộng sự (2013) và Wahidudin & cộng sự (2017). Mô hình GMM cho phép khắc phục cả những vi phạm tự tương quan, phương sai thay đổi và biến nội sinh. Do đó mô hình GMM và các mô hình ước lượng dữ liệu bảng tĩnh khác thường được sử dụng kết hợp để cho ra kết quả không chệch, vững và hiệu quả nhất (Liu & Wilson, 2010; Goddard & cộng sự, 2004).

1.3.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước

Nghiên cứu về HQHĐ của ngành NH Việt Nam từ lâu đã trở thành một đề tài khá quen thuộc, nhận được sự quan tâm bởi nhiều tác giả cả trong và ngoài nước. Tuy nhiên, đa phần những nghiên cứu trước đây chỉ mới dừng lại ở phương pháp thống kê, so sánh


các chỉ tiêu tài chính theo thời gian ở cả quy mô cấp NH hoặc cấp ngành, với những nhận xét và đánh giá mang tính chủ quan của tác giả (Lê Thị Hương, 2002; Lê Dân, 2004; Phạm Thị Bích Lương, 2007). Gần đây, đã có một số công trình bắt đầu áp dụng những phương pháp nghiên cứu có tính hệ thống, bao gồm cả phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng. Nhìn chung, có thể chia những nghiên cứu này thành các nhóm sử dụng phương pháp ước lượng khác nhau, gồm: (i) phương pháp phân tích hiệu quả biên (DEA và SFA), (ii) phương pháp ước lượng gộp (POLS), (iii) phương pháp ước lượng mô hình hiệu quả cố định (FEM) hay ước lượng mô hình hiệu quả ngẫu nhiên (REM), (iv) và phương pháp ước lượng mô hình GMM.

Hầu hết các nghiên cứu sử dụng phương pháp hiệu quả biên đều tập trung đánh giá hiệu quả của các NH Việt Nam ở mức độ vi mô. Nguyen (2007) nghiên cứu hiệu quả của 13 NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2001-2003 nhận thấy rằng các NH này không hiệu quả về cả khía cạnh phân bổ chi phí và kỹ thuật, trong đó sự không hiệu quả kỹ thuật là nghiêm trọng hơn. Kết quả này nhận được sự đồng tình với Liễu Thu Trúc & Võ Thành Danh (2012) khi nghiên cứu các yếu tố tác động đến HQHĐ kinh doanh của 22 NHTM cổ phần Việt Nam giai đoạn 2006-2009. Kết quả chỉ ra rằng nguyên nhân chính dẫn đến sự giảm sút HQHĐ của các NHTM trong giai đoạn nghiên cứu là do yếu tố phi hiệu quả về mặt công nghệ. Khoảng 7,7% đầu vào bị các NH sử dụng lãng phí. Mặt khác, những NH lớn sẽ có lợi thế về chi phí nhiều hơn so với các NH nhỏ, số lượng các NH có hiệu suất giảm dần theo quy mô đang ngày càng ít đi. Tuy nhiên, khi tiến hành nghiên cứu ở phạm vi nhỏ hơn, cụ thể là 21 NHTM trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên, Nguyễn Thị Thu Thương (2017) lại không đồng tình với hai tác giả trên khi khẳng định các NHTM sử dụng tương đối hiệu quả nguồn lực đầu vào với chỉ số hiệu quả kỹ thuật trung bình đạt 94%. Khi phân tích sự thay đổi năng suất của các NHTM theo thời gian, tác giả phát hiện thấy tiến bộ công nghệ là nguyên nhân chính dẫn đến sự thay đổi Chỉ số Malmquist.

Khi phân tích hiệu quả của các NHTM Việt Nam trước và sau sáp nhập, Phan Thị Hằng Nga & Trần Phương Thanh (2017) phân tích HQHĐ của 33 NHTM Việt Nam trong

giai đoan 2007-2014 với các biến đầu vào gồm chi phí trả lãi, chi phí tiền lương và các

chi phí khác, trong khi các biến đầu ra gồm thu nhập lãi và các khoản thu nhập khác. Kết quả cho thấy, đa số các NH sau sáp nhập đã tận dụng được quy mô để tăng HQHĐ. Trung bình mức phi hiệu quả các NH được nghiên cứu chỉ khoảng 10,18%. Nguyên nhân là do các NH vẫn còn sử dụng lãng phí nguồn lực như chi phí tiền lương, chi phí lãi và chi phí khác. Mặt khác, luận án tiến sĩ của Nguyễn Việt Hùng (2008) với đề tài “Phân tích các


yếu tố ảnh hưởng đến HQHĐ của NHTM ở Việt Nam” sử dụng kết hợp phương pháp phân tích biên ngẫu nhiên (SFA) và phân tích bao dữ liệu (DEA) nhằm đánh giá những tác động của các yếu tố tài chính đến HQHĐ của 32 NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2001-2005. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng khối NHTM cổ phần hoạt động hiệu quả hơn khối NHTM Nhà nước. Tuy nhiên, nếu gộp cả khối NHTM cổ phần và liên doanh thì hiệu quả sẽ thấp hơn khối NHTM Nhà nước. Các NHTM liên doanh hoạt động kém hiệu quả nhất. Các NH sử dụng tốt nguồn vốn huy động cũng như thị phần hoạt động thì có thể làm gia tăng hiệu quả.

Bên cạnh việc phân tích hiệu quả NH theo phạm vi khu vực, các tác giả còn tiến hành phân tích sâu hiệu quả của một số NH cụ thể. Chẳng hạn, khi đánh giả HQHĐ của 5 NHTM cổ phần gồm SCB, Ficombank, TinNghiaBank, LVB và LVPB trước và sau M&A, Nguyễn Bích Ngân (2015) đã phát hiện ra rằng hiệu quả của NH SCB bị sụt giảm trong khi hiệu quả của NH LVPB lại tăng lên.

Nhìn chung, hạn chế của hầu hết các nghiên cứu khi sử dụng phương pháp hiệu quả biên, đặc biệt là phương pháp phân tích bao dữ liệu (DEA), là chỉ mới dừng lại ở việc sử dụng các yếu tố bên trong NH để đánh giá hiệu quả dựa trên khía cạnh tài chính mà chưa đề cập đến những khía cạnh khác như tác động từ sự phát triển của ngành NH, mức độ cạnh tranh trên thị trường và các tác động từ yếu tố kinh tế vĩ mô. Với nổ lực khắc phục hạn chế nêu trên, Ngo (2012) đã sử dụng phương pháp DEA có điều chỉnh để phân tích những thay đổi về hiệu quả theo thời gian của hệ thống NHTM Việt Nam trong giai đoạn 1990-2010. Nghiên cứu cho thấy hiệu quả của các NH giảm dần qua thời gian khi quy mô của ngành tăng lên, thị trường tài chính trở nên tự do hơn và khi nền kinh tế khu vực cũng như thế giới có những vấn đề. Tác giả đề xuất việc sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt và/hoặc chính sách tài khóa nới lỏng có thể được xem như một giải pháp để các NHTM Việt Nam có thể nâng cao HQHĐ. Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn còn hạn chế là chỉ phân tích hiệu quả NH dưới tác động của các yếu tố kinh tế tài chính vĩ mô mà chưa đi sâu vào đánh giá tác động từ các yếu tố bên trong của NH. Như vậy, có thể nói, việc sử dụng phương pháp DEA chỉ mới dừng lại ở đo lường mức độ hiệu quả của các NH theo từng nhóm NH hay từng giai đoạn thời gian khác nhau với các nhóm đầu vào và đầu ra khác nhau. Phương pháp DEA nói riêng và các phương pháp hiệu quả biên nói chung chưa đánh giá được cùng lúc các yếu tố bên trong và bên ngoài NH tác động như thế nào đến hiệu quả. Đây là hạn chế lớn nhất của phương pháp này.


Bên cạnh việc sử dụng phương pháp hiệu quả biên, một số tác giả gần đây đã tiến hành phân tích biến động hiệu quả NH thông qua các phương pháp ước lượng dữ liệu bảng như POLS, FEM, REM và GMM. Khác với phương pháp hiệu quả biên, hầu hết các nghiên cứu sử dụng phương pháp ước lượng dữ liệu bảng đều có thể phân tích tác động của các yếu tố thuộc về đặc điểm NH, các yếu tố đặc trưng của ngành cùng với các yếu tố kinh tế vĩ mô đến hiệu quả của các NH cùng một lúc.

Luận án tiến sĩ của Nguyễn Quang Minh (2015) với đề tài “Hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam sau M&A” đã sử dụng kết hợp hai phương pháp DEA và POLS để đánh giá những nhân tố khách quan và chủ quan tác động tới HQHĐ kinh doanh của các NHTM sau M&A như nhân tố về lựa chọn đối tác sáp nhập, đề án sáp nhập, cơ cấu nhân sự, hoạt động cho vay… Kết quả cho thấy, tỷ lệ vốn và các quỹ trên tổng tài sản có tác động không giống nhau tới HQHĐ kinh doanh của NHTM được đo lường thông qua chỉ tiêu ROA và ROE. Tương tự với hướng phân tích này, nghiên cứu của Doan (2016) kết hợp đa dạng các phương pháp ước lượng dữ liệu bảng đã cho thấy tỷ lệ VCSH có tác động đáng kể đến ROA nhưng không tác động đến ROE. Trong khi đó, quy mô NH, đa dạng hóa thu nhập và tốc độ tăng trưởng GDP có tác động đến ROE nhưng lại không ảnh hưởng gì đến ROA. Tuy nhiên, cấu trúc và chất lượng tài sản, cơ cấu tài trợ, lạm phát có tác động đến cả ROA và ROE của NH.

Bên cạnh những chỉ tiêu tài chính cơ bản, một số nghiên cứu cũng đã đưa thêm những biến mới vào trong mô hình đánh giá hiệu quả NH. Batten & Vo (2013) đã tìm thấy mối quan hệ tiêu cực giữa tỷ lệ sở hữu của nhà quản trị với HQHĐ của 35 NH trong nước ở Việt Nam từ năm 2006 đến năm 2012. Ngoài ra, mức độ tập trung ngành cũng ảnh hưởng đến lợi nhuận của các NH. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Mỹ Linh & Nguyễn Thị Ngọc Hương (2015) đối với 27 NHTM cổ phần Việt Nam trong giai đoạn 2008-2013 đã chỉ ra rằng tỷ lệ thu nhập lãi thuần cận biên (NIM) của các NH biến động ngược chiều với hiệu quả quản trị NH. Nguyen & Bui (2015) tìm thấy mối quan hệ giữa thanh khoản và khả năng sinh lợi của 22 NHTM Việt Nam trong giai đoạn 2007-2013. Nghiên cứu của Nguyen (2017) kiểm tra thấy việc gia tăng nợ xấu có thể khiến các NH giảm khả năng sinh lợi và hoạt động cho vay hay. Ngoài ra, bên cạnh việc phân tích những yếu tố tác động đến hiệu quả NH thuần túy, Le & cộng sự (2017) trong nghiên cứu gần đây về 9 NHTM Việt Nam niêm yết trên HNX và HOSE trong thời gian 2007-2013 đã khẳng định rằng các NH nghiên cứu có mức sinh lợi cao hơn so với yêu cầu tối thiểu của CAMELS mặc dù một vài NH có mức sinh lợi thấp trong những năm nhất định.


Bảng 1.2. Mô tả một số nghiên cứu về hiệu quả hoạt động của ngân hàng ở Việt Nam



Tác giả

Phạm vi nghiên cứu

Thời gian nghiên cứu

Phương pháp ước lượng


Kết quả thực nghiệm

Nguyen (2007)

13 NHTM

Việt Nam

2001-2003

DEA

Các NH không hiệu quả về cả khía cạnh phân bổ chi phí và kỹ thuật, trong đó sự không hiệu quả kỹ

thuật là nghiêm trọng hơn.

Nguyễn Việt Hùng (2008)

32 NHTM

Việt Nam

2001-2005

SFA và DEA

+ Các NHTM cổ phần hoạt động hiệu quả hơn các NHTM Nhà nước.

+ Các NHTM liên doanh hoạt động kém hiệu quả nhất.

+ Các NH sử dụng tốt nguồn vốn

huy động và thị phần hoạt động thì có thể làm gia tăng hiệu quả.

Liễu Thu Trúc & Võ Thành Danh (2012)

22 NHTM

Việt Nam

2006-2009

DEA

+ HQHĐ NH bị sụt giảm chủ yếu là do yếu tố phi hiệu quả về mặt công nghệ.

+ Các NH nhỏ có lợi thế về chi phí kém hơn các NH lớn.

+ Khoảng 7,7% đầu vào bị các NH sử dụng lãng phí và số lượng NH có hiệu suất giảm dần theo quy mô

đang ngày càng ít đi.

Ngo (2012)


1990-2010

DEA

+ Hiệu quả của các NH giảm khi quy mô ngành tăng lên, thị trường tài chính trở nên tự do hơn, nền kinh tế khu vực và thế giới có vấn đề.

+ Sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt và/hoặc chính sách tài khóa nới lỏng có thể giúp cải thiện

HQHĐ của hệ thống NH.

Batten &

35 NHTM

2006-2012

FEM, REM

+ Quy mô, mức độ an toàn vốn,

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 185 trang tài liệu này.

Tác động của cạnh tranh đến hiệu quả hoạt động của các ngân hàng Thương mại Việt Nam - 5


Vo (2013)

trong nước ở Việt Nam


và GMM

rủi ro, năng suất và chi phí hoạt động có tác động tích cực trong khi tỷ lệ sở hữu của nhà quản trị lại có ảnh hưởng tiêu cực đến HQHĐ của NH.

+ Mức độ tập trung ngành, lạm

phát và tăng trưởng GDP cũng có tác động đến lợi nhuận của các NH.

Nguyễn Bích Ngân

(2015)

5 NHTM

trước và sau M&A

1984-1985

DEA

Hiệu quả của NH SCB bị sụt giảm trong khi hiệu quả của NH LVPB

lại tăng lên sau sáp nhập.

Nguyễn Quang Minh

(2015)

13 NHTM

tiêu biểu sau M&A

2005-2014

POLS và DEA

Tỷ lệ vốn và các quỹ trên tổng tài sản có ảnh hưởng khác nhau tới chỉ tiêu ROA và ROE của các

NHTM.

Nguyễn Thị Mỹ Linh & Nguyễn Thị Ngọc Hương

(2015)

27 NHTM

cổ phần Việt Nam

2008-2013

POLS, FEM

và REM

Tỷ lệ thu nhập lãi thuần cận biên của các NH biến động cùng chiều với quy mô tài sản, dư nợ cho vay, quy mô VCSH, lãi suất biên và rủi ro tín dụng nhưng lại biến động ngược chiều với hiệu quả quản trị

và tăng trưởng GDP.

Nguyen & Bui (2015)

22 NHTM

Việt Nam

2007-2013

POLS, FEM,

REM và FGLS

Khả năng sinh lợi của các NHTM Việt Nam chịu tác động bởi tỷ lệ VCSH, tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản, tỷ lệ thanh khoản và tốc độ

tăng trưởng kinh tế.

Nguyễn Thị Thu Thương (2017)

21 NHTM

trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên

2011-2015

DEA

+ Nguồn lực đầu vào được các NHTM sử dụng tương đối hiệu quả.

+ Chỉ số Malmquist thay đổi chủ yếu do tiến bộ công nghệ.

+ ROA, nợ xấu, quy mô tài sản và sự gia tăng số lượng doanh nghiệp






ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả

kỹ thuật của các NHTM.

Phan Thị Hằng Nga & Trần Phương Thanh

(2017)

33 NHTM

Việt Nam trước và sau M&A

2007 – 2014

DEA

+ Các NH sau sáp nhập đã tận dụng được quy mô để tăng hiệu quả.

+ Các NH vẫn còn sử dụng lãng phí nguồn lực như chi phí tiền lương, chi phí lãi và chi phí khác.

Doan (2016)

27 NHTM

Việt Nam

2008-2014

POLS, FEM,

REM và GMM

+ Cấu trúc và chất lượng tài sản, tỷ lệ VCSH, lạm phát có mối quan hệ với ROA.

+ Cấu trúc và chất lượng tài sản, cơ cấu tài trợ, quy mô NH, đa dạng hóa thu nhập, tốc độ tăng trưởng GDP và lạm phát có tác

động đến ROE.

Le & cộng sự (2017)

9 NHTM

Việt Nam niêm yết trên HNX và HOSE

2007-2013

FEM và REM

+ Mức sinh lời của các NH nghiên cứu cao hơn so với yêu cầu tối thiểu của CAMELS.

+ Lợi nhuận của các NH chịu tác động tích cực từ tốc độ tăng trưởng tài sản, lãi suất, lạm phát và tăng trưởng GDP, đồng thời chịu

tác động tiêu cực từ quy mô NH.

Nguyen (2017)

34 NHTM

Việt Nam

2005-2015

GMM

+ Nợ xấu có ảnh hưởng tiêu cực và đáng kể đến lợi nhuận và hành vi cho vay của các NH.

+ Các yếu tố đặc thù của NH khác và các yếu tố kinh tế vĩ mô cũng ảnh hưởng đến khả năng sinh lợi và hành vi cho vay của các NH

như kỳ vọng.

Nguồn: Tổng hợp từ các nghiên cứu trước đây


Như vậy, mặc dù đã sử dụng nhiều cách tiếp cận khác nhau về phương pháp, phạm vi và mục tiêu nghiên cứu, nhìn chung các tác giả cả trong và ngoài nước đều hướng đến việc phân tích các yếu tố có tác động đến HQHĐ của NH như thế nào. Các tác giả có thể sử dụng một hoặc nhiều phương pháp nghiên cứu, nghiên cứu ở từng quy mô mẫu lớn nhỏ và ước lượng những biến số khác nhau, tuy nhiên tất cả đều hướng đến một mục đích chung là giải thích cho biến động của hiệu quả NH. Việc nghiên cứu tổng quát với mô hình kiểm định gồm nhiều yếu tố giải thích cùng lúc sẽ đưa ra cái nhìn tổng quan về xu hướng biến động của biến phụ thuộc nhưng không làm nổi bật được tác động của từng yếu tố. Do đó, đã có nhiều tác giả tập trung nghiên cứu tác động của một hoặc một vài biến giải thích cụ thể nào đó đến hiệu quả NH đặt dưới sự kiểm soát của các biến còn lại nhằm đưa ra những nhận định sâu hơn về mối quan hệ của từng yếu tố giải thích với hiệu quả NH. Trên thế giới và cả tại Việt Nam, một trong những yếu tố được các tác giả quan tâm nghiên cứu về tác động của nó đến HQHĐ của NH trong thời gian gần đây phải kể đến là yếu tố cạnh tranh.

1.4. Tổng quan nghiên cứu tác động của cạnh tranh đến hiệu quả hoạt động

ngân hàng

1.4.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

Tác động của cạnh tranh đến HQHĐ NH từ lâu đã trở thành mối quan tâm của các nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách, đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập tài chính sâu rộng như hiện nay. Các nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa cạnh tranh và hiệu quả của các NHTM được thực hiện ở cả phạm vi đa quốc gia hoặc một quốc gia. Tuy nhiên, các kết quả vẫn chưa có sự thống nhất ở cả các nước phát triển và các nước đang phát triển (Ariss, 2010; Maudos & Solis, 2011).

Nghiên cứu của Maudos & Fernandez de Guevara (2007) về các NH ở 15 quốc gia thuộc khu vực EU trong giai đoạn 1993-2002 đã tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa sức mạnh thị trường và hiệu quả chi phí X của các NH. Tuy nhiên, lợi ích từ việc giảm sức mạnh thị trường lớn hơn tổn thất về hiệu quả chi phí, do đó, việc ban hành những chính sách kinh tế hướng đến việc loại bỏ những rào cản cạnh tranh từ bên ngoài là cần thiết. Kết quả tương tự cũng được tìm thấy trong nghiên cứu của Pasiouras & Kosmidou (2007), tập trung thị trường sẽ mang lại lợi nhuận cao hơn cho các NH nước ngoài ở châu Âu. Đồng tình với kết luận trên, William (2012) khi nghiên cứu về vấn đề cạnh tranh và hiệu quả ở 419 NHTM thuộc khu vực Mỹ Latinh đã tìm thấy mối quan hệ tích cực giữa

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 24/11/2022