Trong đó:
Tổng vốn tự có của ngân hàng được chia làm hai loại:
- Vốn cấp 1: Vốn tự có cơ bản: gồm cổ phần thường; cổ phần ưu đãi dài hạn; thặng dư vốn; lợi nhuận không chia; dự phòng chung các khoản dự trữ vốn khác; các phương tiện ủy thác có thể chuyển đổi và dự phòng lỗ tín dụng. Đó chính là vốn điều lệ và các quỹ dự trữ được công bố.
- Vốn cấp 2: Vốn tự có bổ sung gồm dự trữ không được công bố; dự trữ tài sản đánh giá lại; dữ phòng chung/dự phòng tổn thất cho vay chung; các công cụ vốn lai (nợ/vốn chủ sở hữu); nợ thứ cấp. Tuy nhiên, khoản nợ ngắn hạn không có bảo đảm không nằm trong định nghĩa về vốn này.
- Giới hạn về 02 loại vốn: Tổng vốn cấp 2 không được quá 100% vốn cấp 1; nợ thứ cấp tối đa bằng 50% vốn cấp 1; dự phòng chung tối đa bằng 1,25% tài sản có rủi ro (RWA); dự trữ tài sản đánh giá lại được chiết khấu 55%; thời gian đáo hạn còn lại của nợ thứ cấp tối thiểu là 5 năm; vốn ngân hàng không bao gồm vốn vô hình.
RWArủi ro tín dụng: Theo trụ cột 1 của Basel II, vốn kinh tế tối thiểu cần thiết để bù đắp cho rủi ro tín dụng = RWArủi ro tín dụng x 8%.Trong đó công thức tính tài sản điều chỉnh theo RRTD như sau:
Trong đó:
- Wi: Trọng số rủi ro; Ai: Loại tài sản có
- RWArủi ro tín dụng: Tổng tài sản có theo rủi ro
- Hệ số rủi ro trong cách tiếp cận chuẩn hóa được xác định dựa trên 2 yếu tố là nhóm khách hàng vay và hạng tín nhiệm của khách hàng (bên ngoài xếp hạng)
- Hệ số rủi ro nếu tiếp cận theo phương pháp IRB thì, RWArủi ro tín dụng được tính trên cơ sở các yếu tố đầu vào là: PD, EAD, LGD, b – kỳ hạn điều chỉnh , CI, M vàρ – trọng số tương quan.
Yêu cầu về phương pháp tiếp cận
Phương pháp tiêu chuẩn
Phương pháp tiếp cận chuẩn hóa ràng buộc trọng số rủi ro với xếp hạng được cung cấp bởi các tổ chức xếp hạng bên ngoài được công nhận. Phương pháp xếp hạng tín dụng nội bộ sử dụng các ước tính của chính ngân hàng về các yếu tố rủi ro nhất định, sự khác nhau giữa cách tiếp cận cơ bản và cách tiếp cận nâng cao dựa trên các yếu tố rủi ro được phép sử dụng tính toán.
Phương trình đo lường RRTD với tài sản có rủi ro theo phương pháp chuẩn:
Một số điểm khác biệt so với chuẩn mực Basel I sau:
- Hệ số rủi ro: kết quả đánh giá của tổ chức XHTD độc lập được sử dụng khi xếp hạng cho tài sản có rủi ro. Tuy nhiên, không thực hiện việc áp đặt hệ số rủi ro rõ ràng cho từng khoản mục mà chỉ quan tâm vào việc khoản mục đó được thực hiện với chủ thể nào, uy tín và XHTD của chủ thể. Cơ quan xếp hạng tín nhiệm quy định việc xếp trọng số bao nhiêu tùy thuộc mức độ tín nhiệm của chủ nợ (từ AAA đến dưới B - và không xếp hạng). Một khoản mục tài sản có sẽ phải chịu hệ số rủi ro 100% trong trường hợp không có kết quả xếp hạng của tổ chức xếp hạng độc lập.
- Tài sản được xếp hạng rủi ro: Tài sản được phân loại thành một tập hợp các lớp tài sản và mỗi lớp có một trọng số rủi ro được áp dụng, phản ánh mức độ tương quan của rủi ro tín dụng. So với Basel I, thì Basel II sử dụng xếp hạng tín dụng bên ngoài làm cơ sở quyết định trọng số rủi ro.
Bảng3.1 Thang xếp hạng các khoản tín dụng của Standard & Poor’s (S&P)
Mô tả | |
AAA | Chất lượng tín dụng cực kỳ tốt và rủi ro tín dụng kỳ vọng cực kỳ thấp. Xác suất khả năng thực hiện các nghĩa vụ và cam kết tài chính sẽ bị tác động tiêu cực bởi những sự kiện có thể dự đoán được là rất ít. |
AA | Chất lượng tín dụng rất tốt, phản ánh rủi ro tín dụng rất thấp. Năng lực đáp ứng và tôn trọng các nghĩa vụ và cam kết tài chính và năng lực này ít có khả năng bị ảnh hưởng bởi các sự kiện có thể được dự báo trước. |
Có thể bạn quan tâm!
- Hiệu Quả Hoạt Động Của Vietinbank Vĩnh Long Giai Đoạn 2015 - 2019
- Chỉ Tiêu Trích Lập Dự Phòng Và Bù Đáp Rủi Ro Tín Dụng
- Các Phương Pháp Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng
- Tổng Quan Về Các Công Trình Nghiên Cứu Trong Và Ngoài Nước Có Liên Quan
- Thực Trạng Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Theo Chuẩn Mực Basel Ii Tại Ngân Hàng Tmcp Công Thương Việt Nam Chi Nhánh Vĩnh Long
- Đánh Giá Thực Trạng Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Theo Chuẩn Mực Basel Ii Tại Vietinbank Vĩnh Long
Xem toàn bộ 127 trang tài liệu này.
Mô tả | |
A | Chất lượng tín dụng tốt, rủi ro tín dụng thấp. Khả năng trả nợ được đánh giá là tốt, nhưng dễ bị tổn thương hơn các mức xếp hạng cao hơn trước những thay đổi trong nền kinh tế vi mô và vĩ mô. |
BBB | Chất lượng tín dụng tương đối phản ánh một mức rủi ro tín dụng trung bình. Trong khi khả năng thanh toán các cam kết tài chính được đánh giá là đủ, những thay đổi bất lợi và các điều kiện kinh tế bất lợi có thể làm suy yếu hơn và làm suy giảm khả năng thanh toán. Trong nhóm xếp hạng đầu tư, đây là mức xếp hạng thấp nhất. |
BB | Chất lượng tín dụng ở mức đầu cơ cho thấy rủi ro tín dụng có thể sẽ gia tăng, đặc biệt là trong các điều kiện bất lợi. Các cam kết tài chính vẫn có khả năng được đáp ứng, nhưng có những yếu tố mang tính đầu cơ và những sự không chắc chắn thường xuyên. Trong nhóm đầu cơ, đây là mức xếp hạng cao nhất. |
B | Chất lượng tín dụng có tính đầu cơ cao phản ánh rủi ro tín dụng cao. Một mức rủi ro tín dụng lớn đã xuất hiện, nhưng vẫn còn một biên độ an toàn nhất định. Những điều kiện kinh tế, tài chính và điều kiện kinh doanh bất lợi sẽ có khả năng làm suy giảm khả năng trả nợ. |
Dưới B | Chất lượng tín dụng có tính bị tổn thương cao, trong đó việc vỡ nợ có khả năng xảy ra rất cao. |
(Nguồn : Chuẩn mực Basel II – Bank For International Settlements)
Bảng 3.2 Trọng số rủi ro theo chuẩn mực Basel II
AAA/AA | A | BBB | BB | B | Dưới B | Không được XH | |
Quốc gia | 0% | 20% | 50% | 100% | 100% | 150% | 100% |
Ngân hàng- Lựa chọn 1 | 20% | 50% | 100% | 100% | 100% | 150% | 100% |
Ngân hàng- Lựa chọn 2 | 20% | 50% | 50% | 100% | 100% | 150% | 50% |
Ngân hàng- Ngắn hạn | 20% | 20% | 20% | 50% | 50% | 150% | 20% |
Doanh nghiệp | 20% | 50% | 100% | 100% | 150% | 150% | 100% |
Bán lẻ | 75% | ||||||
Dân cư | 35% | ||||||
Thương mại | 100% | ||||||
Các khoản cho vay quá hạn | 50%, 100%, 150% phụ thuộc vào mức độ dự phòng |
(Nguồn : Chuẩn mực Basel II – Bank For International Settlements)
Phương pháp xếp hạng nội bộ(Internal Ratings Based - IRB)
Phương pháp này cho phép các ngân hàng lựa chọn phương pháp XHTD nội bộ (IRB) của mình để xác định mức tín nhiệm của khách, xác suất vỡ nợ, kỳ đáo hạn hiệu dụng, tỷ trọng tổn thất tín dụng, từ đó tính toán tài sản có RRTD.
Khác biệt lớn nhất của phương pháp IRB và phương pháp chuẩn hóa chính là việc ngân hàng được sử dụng kết quả đánh giá nội bộ về các yếu tố rủi ro chủ yếu trong hoạt động để tính toán CAR. Ngân hàng muốn áp dụng phương pháp IRB cần có sự chấp thuận của cơ quan giám sát ngân hàng (như thanh tra ngân hàng hoặc NHNN). Phương pháp này phù hợp với ngân hàng với nhiều quy mô khác nhau, nhiều cấu trúc doanh nghiệp khác nhau và danh mục rủi ro khác nhau.
Phương trình đo lường RRTD của tài sản có rủi ro theo phương pháp IRB:
Trong đó:
EAD: Tổng dư nợ của khách hàng khi khách hàng không trả được nợ;
K (Capital required): Tỷ lệ vốn cần thiết để dự phòng những trường hợp RRTD không lường trước nhưng lại xảy ra, được xác định thông qua: (1) Xác suất vỡ nợ - PD: Probability of Defaut; (2) Tổn thất khi xảy ra vỡ nợ - LGD: Loss Given Defaut; (3) Đáo hạn hiệu dụng - Maturity.
RWA: Được xác định cụ thể cho từng hình thức cho vay. RWA khác biệt đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, cũng như đối với các khoản cho vay đối với doanh nghiệp lớn.
- Xác định IRB cơ bản và IRB nâng cao
Với IRB cơ bản: các ngân hàng phải tự ước tính PD và sử dụng các ước tính của cơ quan giám sát về các thành tố rủi ro.
Với IRB nâng cao: ngân hàng sẽ tự đưa ra các ước tính cho tất cả các thành tố rủi ro (gồm PD, LGD, EAD, M) nhưng phải tuân theo các chuẩn mực tối thiểu.
Phương pháp tiếp cận xếp hạng nội bộ dựa trên đánh giá của một ngân hàng của các đối tác về khoản rủi ro tiềm ẩn để tính toán nhu cầu vốn cho rủi ro tín dụng bao gồm dạng cơ bản và dạng nâng cao.Tuy nhiên, phương pháp xếp hạng nội bộ không cho phép các ngân hàng tự quyết định tất cả những thành phần cần thiết để tính toán yêu cầu về vốn của mình. Thay vào đó, các tỷ lệ rủi ro và các số liệu đầu vào định lượng do ngân hàng cung cấp cần phù hợp với công thức do Basel II quy định để tính ra số vốn theo yêu cầu.
Tiếp cận dựa trên xếp hạng nội bộ cho rủi ro tín dụng (IRB) là một trong những yêu tố đổi mới nhất của khung Basel II mới bởi vì nó cho phép chính các ngân hàng quyết định các yếu tố căn bản khi tính toán các yêu cầu về vốn của họ. Với cách tiếp cận IRB, vốn yêu cầu tối thiểu dựa trên “phân bố xác suất thua lỗ” dựa vào rủi ro mặc định trong danh mục các khoản vay hay các công cụ tài chính khác. Nhận thức về đánh giá rủi ro được thiết lập trong một năm. Mô hình IRB tiếp tục giả định một mức độ 99.9% độ tin cậy.
Theo như cách tiếp cận này cần phải thực hiện:
Ước lượng các thông số rủi ro như: PD, LGD, rủi ro tiềm ẩn khi vỡ nợ (EAD), kỳ hạn (M). Đây là những đầu vào cho các hàm đánh trọng số rủi ro được thiết kế cho mỗi loại tài sản để đi đến tổng tài sản có rủi ro (RWA)
Các yêu cầu về vốn cho rủi ro tín dụng được đo lường bằng 8% của tổng tài sản có rủi ro(RWA) theo chuẩn mực Basel II.
Để đo lường yêu cầu vốn tối thiểu cho tất cả các khoản rủi ro của NH, cần 3 yếu tố chính: (1) Các tham số rủi ro LG, EAD, LGD, M; (2) Các hàm theo trọng số rủi ro; (3)Yêu cầu thối thiểu mà 1 ngân hàng phải đáp ứng để sử dụng phương pháp tiếp cận xếp hạng nội bộ
Yêu cầu về xây dựng các hệ thống
Hệ thống xếp hạng tín dụng
Hệ thống xếp hạng tín dụng cần phải xác định trực tiếp được đối tượng cần xếp hạng. Cụ thể xếp hạng:về khoản cấp tín dụng, đánh giá lịch sử tín dụng, sản phẩm, đánh giá thực trạng các nhân tố liên quan đến phê duyệt tín dụng, về khách hàng, về đối tác, và mức độ rủi ro quốc gia.
Hệ thống xếp hạng khách hàng chính là căn cứ để xác định xác suất vỡ nợ cho từng khoản vay hay sản phẩm.
Hệ thống quản lý tài sản bảo đảm
Hệ thống này nhằm đảm bảo khả năng giám sát, tra soát toàn bộ tài sản bảo đảm. Mục tiêu của hệ thống nhằm đảm bảo không xảy ra rủi ro pháp lý đối với tất cả hồ sơ tài sản cũng như đảm bảo linh hoạt trong việc đánh giá giá trị hiện thời.
Hệ thống quản lý này sẽ là căn cứ để xác định xác suất mất vốn (LGD) do vỡ nợ, đồng thời cũng cho phép áp dụng các nghiệp vụ bù trừ giá trị tài sản bảo đảm hay nghiệp vụ chiết khấu giá trị tài sản bảo đảm.
Hệ thông kiểm soát giới hạn tín dụng
Hệ thống cần phải giải quyết được 2 mục tiêu cơ bản: (1) Về khoa học tính toán và (2) vấn đề kiểm soát việc thực hiện.
Hệ thống cũng cần kiểm soát được các chỉ tiêu giới hạn thuộc quy định của
NHNN. Hệ thống có thể được gán theo từng tiêu chí khác nhau.
Mô hình tính toán và kỹ thuận hạn chế rủi ro
Mô hình tính toán nhằm xác định kết quả cuối cùng trong việc tính toán các chỉ tiêu định lượng nhằm ước tính tổn thất.
Có thể tính dự kiến xác suất rủi ro hoặc ước lượng tổn thất EL (Expected Loss) dựa trên khả năng vỡ nợ PD (Probability of Default) cùng mức độ tổn thất khi
vỡ nợ LGD (Loss Given Default), cụ thể:
Một số kỹ thuật giúp hạn chế RRTD có thể nói đến như: bù trừ giá trị - điều chỉnh nội bảng, bảo lãnh và các sản phẩm tín dụng phái sinh, chứng khoán hóa..
Hoàn thiện khung quy trình chung cho quản trị rủi ro tín dụng
Basel II yêu cầu chuẩn hoá chung về kết cấu dữ liệu bao gồm: (1)Thông tin sản phẩm, (2) Cơ sở dữ liệu đảm bảo đồng bộ giúp cho việc tính toán chính xác các chỉ số, (3) Dữ liệu phải cung cấp được các quá trình lịch sử, dữ liệu liên quan đến quản trị rủi ro, đánh giá phân loại, xác suất vỡ nợ, khả năng xảy ra rủi ro dẫn đến mất vốn và thu hồi nợ xấu theo dõi ngoại bảng.
Các quy định yêu cầu về vốn trung bình được quy định trong Basel II bị đánh giá là khá thấp trong khi những rang buộc để có cơ sở vốn chat lượng cao lại chưa được quy định chặt chẽ. Bên cạnh những thiếu sót thì Basel II đã có những ảnh hưởng lớn trong việc nâng cao năng lực quản trị điều hành, năng lực quản lý rủi ro. Hiện nay, việc tiếp cận chuẩn mực Basel II yêu cầu về trình độ, kỹ thuật phức tạp, chi phí khá cao. Do vậy, đối với một số nước có hệ thống ngân hàng đang ở giai đoạn mới phát triển nhu Việt Nam thì việc áp dụng chuẩn mực Basel II gặp rất nhiều khó khăn, thách thức và mất nhiều thời gian. Tuy nhiên trước xu thế hội nhập thì áp dụng chuẩn mực Basel II là cần thiết.
3.3.3 17 nguyên tắc vàng trong quản trị rủi ro tín dụng của Basel
Ủy ban Basel đã đề xuất 17 nguyên tắc cơ bản trong quản trị RRTD. Các nguyên tắc tập trung vào 5 nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất: Thiết lập môi trường rủi ro tín dụng phù hợp ( nguyên tắc 1, 2, 3).
Các ngân hàng cần thiết lập môi trường RRTD phù hợp: xác định được chiến lược
quản trị RRTD cho từng giai đoạn nhất định, chiến lược RRTD phải phản ánh được khẩu vị RRTD và lợi nhuận kỳ vọng của ngân hàng. HĐQT chịu trách nhiệm phê duyệt, Ban điều hành chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện chiến lược. Môi trường phù hợp còn phải đảm bảo sự phân tách, độc lập về chức năng hoạt động giữa bộ phận kinh doanh và bộ phận quản trị RRTD.
Thứ hai: Đảm bảo quy trình cấp tín dụng lành mạnh (nguyên tắc 4,5,6,7). Hoạt động cấp tín dụng phải tuân thủ theo tiêu chuẩn, giới hạn cấp tín dụng lành mạnh đã được ngân hàng xác định. Giới hạn cấp tín dụng phải được thiết lập cho từng khách hàng, nhóm khách hàng liên quan cho từng loại hình tín dụng, bao gồm các khoản mục trên sổ kinh doanh, các hoạt động nội bảng và ngoại bảng. Trong các tiêu chuẩn cấp tín dụng lành mạnh cần phải thể hiện được nội dung cơ bản như: thị trường mục tiêu, năng lực và sự tín nhiệm của bên được cấp tín dụng, mục đích, cấu trúc, nguồn trả nợ của một khoản tín dụng. Ngân hàng phải thực hiện đầy đủ các quy trình phê duyệt tín dụng, bao gồm các khoản tín dụng mới và quy trình sửa đổi, điều chỉnh, tái tài trợ, tái cơ cấu cho các khoản tín dụng hiện tại. Ngoài ra, phê duyệt tín dụng phải đảm bảo công bằng, khách quan trong suốt quá trình thực hiện.
Thứ ba: Duy trì quy trình quản lý, đo lường và giám sát phù hợp (nguyên tắc 8,9,10,11,12,13). Ngân hàng cần phải có một hệ thống quản lý thường xuyên các danh mục có nguy cơ phát sinh rủi ro. Ủy ban Basel khuyến khích các NHTM phát triển hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ (XHTDNB) để quản lý RRTD. Để hệ thống XHTDNB hoạt động hiệu quả thì nó phải phù hợp với bản chất, qui mô và mức độ phức tạp trong hoạt động tín dụng của mỗi ngân hàng. Các ngân hàng phải có hệ thống tin và kỹ thuật phân tích để quản lý việc đo lường RRTD ở các hoạt động nội và ngoại bảng. NHTM phải có hệ thống để giám sát RRTD ở cấp độ từng khoản tín dụng riêng lẻ và danh mục tín dụng. Bao gồm các điều kiện, mức trích lập dự phòng đối với từng khoản tín dụng, trạng thái và chất lượng của danh mục tín dụng.
Thứ tư: Đảm bảo sự kiểm soát đầy đủ đối với rủi ro tín dụng (nguyên tắc 14, 15, 16). Chức năng cấp tín dụng phải được quản lý để hoạt động cấp tín dụng luôn tuân thủ các tiêu chuẩn và giới hạn nội bộ đã được xác định. Cần tăng cường hiệu