Bài Học Kinh Nghiệm Tiệm Cận Các Thông Lệ Quốc Tế Và Chuẩn Mực Basel Ii Nhằm Nâng Cao Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Cho Các Ngân Hàng Thương Mại

chính thức ban hành hướng dẫn áp dụng Basel II, dự kiến tại thời điểm đó là Basel II sẽ được áp dụng tại các ngân hàng Ấn Độ vào tháng 3/2007 nhưng sau đó đã phải lùi lại một năm sau đó. Vào thời điểm 3/2008, các ngân hàng Ấn Độ đã áp dụng phương pháp tiếp cận cơ bản vào quản trị rủi ro tín dụng cho các ngân hàng có hoạt động quốc tế và đến tháng 3/2009 thì toàn bộ hệ thống NHTM của Ấn Độ đều áp dụng Basel II. RIB đã đưa ra quy định khắt khe hơn so với quy định chuẩn, yêu cầu vốn tối thiểu CAR là 9% (quy định chuẩn là 8%), Vốn cấp 1 là 6% (chuẩn là 4.5%). Điều này cho thấy RIB đưa ra yêu cầu chặt hơn so với quy định chung nhằm nâng cao năng lực QTRR, giúp các ngân hàng duy trì được cơ cấu vốn ổn định. Từ đó, các ngân hàng có chất lượng tài sản tốt, tỷ trọng rủi ro tài sản thấp hơn, QTRRTD thể hiện tính hiệu quả rất rõ ràng.

Về QTRRTD áp dụng theo các quy định của Basel II: Các đánh giá liên quan đến 3 cách tiếp cận QTRRTD tại các ngân hàng Ấn Độ cũng tuân theo các quy định của Basel II, đặc biệt là yêu cầu về dữ liệu cho việc xây dựng mô hình xếp hạng (5 năm lịch sử dữ liệu với cách tiếp cận cơ bản FIRB và 7 năm với cách tiếp cận nâng cao AIRB), cách tiếp cận chuẩn SA, các ngân hàng Ấn Độ áp dụng hệ thống xếp hạng của các tổ chức xếp hạng bên ngoài. Lộ trình về thời gian được đưa ra cho các ngân hàng bắt đầu từ tháng 4/2012 và hoàn thành việc áp dụng phương pháp tiếp cận IRB vào tháng 3/2014.

Basel được chỉnh sửa và bổ sung để ra đời Basel III vào năm 2010, với các quy định chặt hơn về tỷ lệ vốn tối thiểu (CAR tăng lên 10.5%, Vốn cấp 1 tăng từ 4% - 6%, tỷ lệ an toàn quỹ 4.5%), các tỷ lệ đòn bẩy tài chính, quan điểm chặt hơn về vốn nhưng không có nhiều thay đổi về QTRRTD. Tương ứng với các quy định mới của Basel III, RIB vẫn giữ nguyên tắc chặt chẽ, các tỷ lệ các ngân hàng Ấn Độ phải tuân thủ vẫn cao hơn so với yêu cầu chuẩn, và các ngân hàng phải có lộ trình áp dụng Basel III từ năm 2013 đến 2018. Có thể thấy, RIB luôn đi trước, áp dụng và có những hướng dẫn rất nhanh, kịp thời, thậm chí chặt chẽ hơn các quy định khuyến nghị trong Basel cũng nhằm mục đích xây dựng một hệ thống ngân hàng tài chính lành mạnh, có sức hạn chế rủi ro trong giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu.

2.5.3. Bài học kinh nghiệm tiệm cận các thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II nhằm nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng cho các ngân hàng thương mại Việt Nam

Từ nghiên cứu bài học kinh nghiệm các nước, cách thức tiệm cận các thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II thành công với mục đích nâng cao, cải thiện năng lực quản trị về rủi ro cho ngân hàng, có thể rút ra một số bài học tổng quát cho NHTM Việt Nam như sau:

Một là, năng lực QTRRTD phải trở thành năng lực cốt lõi của ngân hàng. Muốn tiệm cận thành công các thông lệ quốc tế để nâng cao năng lực QTRRTD thì trước hết các NHTM phải coi QTRRTD là quá trình thường xuyên liên tục, QTRRTD cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan quản lý Nhà nước và từng NHTM. Năng lực QTRRTD phải trở thành năng lực cốt lõi, cơ bản nhằm đảm bảo sự phát triển và tăng trưởng của các NHTM an toàn và bền vững.

Hai là, áp dụng thông lệ quốc tế và Basel II theo các cấu phần thích hợp với điều kiện của thị trường và của từng ngân hàng: (i) Các NHTM cần có lộ trình rõ ràng, cụ thể và có hướng dẫn mang tính bắt buộc tuân theo từ cơ quan quản lý cao nhất. Các NHTM cần chủ động nghiên cứu các thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II trong QTRRTD, các nội dung triển khai bám theo quy định Basel II khuyến nghị (3 trụ cột chính trong Basel II); (ii) Để khắc phục vấn đề khó khăn về số liệu, tài chính theo từng cách tiếp cận, các NHTM xây dựng một lộ trình thực hiện trong thời gian cần thiết chuẩn bị về cơ sở công nghệ thông tin, dữ liệu, năng lực về vốn và tài chính. Đặt ra các quy định chặt chẽ hơn các quy định trong Basel II, tuân thủ khắt khe hơn, đảm bảo quá trình triển khai thành công.

Ba là, cần xây dựng chính sách tín dụng hợp lý, cơ chế rõ ràng, chặt chẽ về pháp lý đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng. Chính sách tín dụng phải đảm bảo hoạt động tín dụng thực hiện trên cơ sở khách quan, minh bạch tuân thủ các quy tắc, quy trình của pháp luật và quy định của ngân hàng. Các văn bản pháp lý phải tuân theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II, coi trọng công tác kiểm tra, giám sát về QTRRTD, thiết kế các chốt kiểm tra kiểm soát hợp lý tại các bước trong quá trình QTRRTD.

Bốn là, vấn đề nguồn nhân lực cho quản trị rủi ro tín dụng là then chốt. Mức độ phức tạp của mỗi phương pháp tiếp cận trong Basel II thể hiện trong cách tính

toán, vận hành, trong xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu quản lý khách hàng. Do đó, nhân lực cho việc triển khai các thông lệ và chuẩn mực Basel II đòi hỏi chuyên môn cao, tổng hợp về cả kiến thức tín dụng, quản trị, mô hình, thống kê toán học. Đây là nhân tố mà các NHTM Việt Nam chưa thể đáp ứng được yêu cầu, hầu hết việc đánh giá phân tích liên quan đến Basel II tại các NHTM đều do các chuyên gia tư vấn /cán bộ quản lý cao cấp nước ngoài thực hiện.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Năm là, vai trò của cơ quan giám sát ngân hàng phải luôn được nhấn mạnh. Vai trò quan trọng của công tác giám sát kiểm tra là quan trọng, cần thiết để hoạt động kiểm tra giám sát tại các NHTM được tăng cường đẩy mạnh. Đây là một trong những lớp phòng vệ hữu hiệu nhất tầm vĩ mô, đảm bảo phát hiện các dấu hiệu cảnh báo RRTD của NHTM, dấu hiệu bất ổn trên thị trường tài chính, kịp thời có các biện pháp ngăn chặn diễn biến xấu có thể đưa đến khủng hoảng bình diện rộng.

CHƯƠNG 3

THỰC TRẠNG NĂNG LỰC QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG THEO THÔNG LỆ QUỐC TẾ TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM


3.1. Tổng quan về hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam

3.1.1. Tổng quan về hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam

Ngành ngân hàng Việt Nam được chính thức khai sinh vào năm 1956, ban đầu với những nhiệm vụ chủ yếu là: quản lý phát hành giấy bạc và tổ chức lưu thông tiền tệ, quản lý kho bạc nhà nước, huy động vốn và cho vay phục vụ sản xuất lưu thông hàng hóa, quản lý các hoạt động tín dụng bằng biện pháp hành chính. Tuy nhiên, vai trò của ngành ngân hàng chỉ thực sự được phát huy sau đại hội lần thứ 6 (năm 1990) với hai pháp lệnh ngân hàng được công bố, là cơ sở pháp lý quan trọng khẳng định sự thay đổi mạnh mẽ của ngân hàng. Trải qua chặng đường phát triển hơn 25 năm từ năm 1990 đến nay, hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định đóng góp rất lớn cho sự phát triển của nền kinh tế. Đánh giá chung về hệ thống NHTM Việt Nam có các vấn đề nổi bật sau [32]:

(1) Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế phát triển dựa vào ngân hàng. Với hoạt động cốt lõi và truyền thống là tập trung các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội và dẫn chúng tới các dự án sản xuất kinh doanh hiệu quả, chất lượng công tác tín dụng cơ bản quyết định sự tồn tại và phát triển của NHTM. Xét trên bình diện toàn hệ thống, điều này chi phối lớn chất lượng và mức độ phát triển của cả nền kinh tế. Thực tế, thị trường vốn tại Việt Nam chưa phát triển, tỷ lệ dư nợ tín dụng của nền kinh tế/GDP (đạt trên 100% suốt giai đoạn 2009 - 2011 và ở mức 98% năm 2014, theo số liệu Tổng cục thống kê 2014) cao hơn nhiều so với các nước phát triển có trình độ tương đương trong khu vực.

(2) Tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh trước đây đã giảm mạnh trong các năm 2010 – 2012, chỉ đạt 8.91% trong cả năm 2012, chủ yếu do các nhân tố như: cầu trong nước và nước ngoài thấp, doanh nghiệp khó khăn, tồn kho lớn đã hạn chế khả năng hấp thụ vốn ngân hàng của doanh nghiệp. Khả năng trả nợ của doanh nghiệp và hộ dân suy giảm trong điều kiện khó khăn về đầu ra, thị trường bất động sản đóng băng trong khi phần lớn tài sản thế chấp các khoản vay có nguồn gốc bất động sản, các TCTD có xu hướng thận trọng hơn khi cấp tín dụng để hạn chế rủi ro trong hoạt động tín dụng. Nhờ

có các chính sách và giải pháp hỗ trợ đó thì tính đến cuối tháng 6/2014 tốc độ tăng trưởng tín dụng toàn ngành tăng 3.52% so với cuối năm 2013. Cùng với đó là tính hiệu lực của Thông tư 29/2013/TT-NHNN về đối tượng được cấp tín dụng ngoại tệ, quy định về trần huy động lãi suất, các chính sách tài chính tiền tệ ổn định nền kinh tế cũng là những nhân tố hỗ trợ tốc độ tăng trưởng tín dụng.

Hình 3 1 Tốc độ tăng trưởng tín dụng 2009 – 10 2015 Nguồn Tác giả tổng 1

Hình 3.1: Tốc độ tăng trưởng tín dụng (2009 – 10/2015)

Nguồn: Tác giả tổng hợp số liệu từ các báo cáo [32]

(3) Tình hình nợ xấu ngân hàng: Chỉ tiêu tỷ lệ nợ xấu cho thấy thực chất tình hình chất lượng chất lượng tín dụng tại ngân hàng, đồng thời phản ánh khả năng quản lý tín dụng của ngân hàng, qua đó đánh giá năng lực QTRRTD của các ngân hàng nói chung, năng lực QTRRTD theo từng khoản cấp tín dụng và theo danh mục tín dụng.

Tỷ lệ nợ xấu theo chuẩn mực quốc tế nói chung là 1.5% và tại Việt Nam 3% là mức mà NHNN đưa ra trong các thời kỳ để khống chế, giám sát các NHTM. Trước những suy giảm kinh tế trong thời gian dài, tốc độ và quy mô nợ xấu tăng nhanh và tăng ở tất cả các nhóm ngân hàng từ năm 2007 và được quan tâm đặc biệt từ cuối năm 2011. Năm 2010, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống NHTM chỉ 2,52%, tương đương khoảng 58.000 tỉ đồng, gia tăng khá nhiều so với năm 2009 là 2,05% nhưng tỷ lệ nợ xấu vẫn trong hạn mức yêu cầu của NHNN. Tỷ lệ tăng trưởng tín dụng năm 2010 tiếp tục duy trì ở mức tăng trên 30%, tổng phương tiện thanh toán tăng 23%, nợ xấu thông được các NHTM xử lý thông qua trích lập dự phòng rủi ro tín dụng (DPRR TD) theo quy định, phát mãi tài sản bảo đảm, tái cơ cấu lại nợ vay.


Hình 3 2 Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng Nguồn Tác giả tổng hợp 2

Hình 3.2: Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng

Nguồn: Tác giả tổng hợp số liệu từ các báo cáo của NHNN [32], NHTM

Năm 2011, nợ xấu bắt đầu gia tăng về giá trị lên 85.000 tỉ đồng, chiếm 3,3% tổng dư nợ. Đồng thời, các NHTM bắt đầu gặp khó khăn về thanh khoản và kết quả hoạt động kinh doanh chững lại. Đây là hậu quả tất yếu của: (i) chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng và có phần thắt chặt; (ii) nợ xấu tích tụ từ nhiều năm trước được bùng phát; (iii) tình trạng doanh nghiệp làm ăn thua lỗ trở nên phổ biến. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới hệ thống NHTM ở 3 phương diện: Gia tăng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng; Giảm tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu; Rủi ro thanh khoản, kỳ hạn, rủi ro đổ vỡ hệ thống ngân hàng. Để giảm nợ xấu, các NHTM vẫn áp dụng các phương pháp thông thường như sử dụng bán nợ, bán tài sản đảm bảo và phương pháp giảm nhanh nhất là sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro chuyển hạch toán ngoại bảng.

Năm 2012, kết quả tất yếu là bùng nổ tỷ lệ nợ xấu, đồng thời xuất hiện sự không thống nhất về số liệu nợ xấu. Trong giai đoạn, 2008 – 2011, tốc độ tăng trưởng tín dụng bình quân là 26,56%, nhưng tốc độ tăng trưởng nợ xấu lại ở mức 51%. Tuy nhiên, theo báo cáo từ các TCTD, đến 31/5/2012, nợ xấu của hệ thống là 117.723 tỷ đồng, chiếm 4,47%, số liệu của Cơ quan giám sát ngân hàng thì tỷ lệ nợ xấu lên đến 7.8%. Theo số liệu của Fitch Ratings, tỷ lệ nợ xấu Việt Nam là 13% trên tổng dư nợ. Những con số cho thấy tình trạng nợ xấu, nợ quá hạn chưa được phản ánh một cách chính xác để tìm ra giải pháp xử lý phù hợp.

Năm 2013, nợ xấu tại các tổ chức tín dụng của Việt Nam tăng mạnh tới 23,73% so với năm 2012. Nợ xấu đã ngày càng xấu và vượt tầm kiểm soát của từng ngân hàng.

Chính phủ và NHNN phải thông qua nhiều giải pháp, sáng kiến nhằm xử lý triệt để nợ xấu trong hệ thống ngân hàng, tăng cường xây dựng các quy định về an toàn vốn, xử lý nợ xấu hệ thống qua việc thành lập VAMC, nâng cao năng lực QTRR, hướng đến hoàn thiện theo chuẩn mực Basel II. Thông tư 02/2013/TT-NHNN ban hành nhằm đưa ra số liệu sát thực về chất lượng dư nợ, đặc biệt là nợ xấu của các NHTM Việt Nam.

Theo báo cáo của các NHTM, đến cuối tháng 7/2014, tổng nợ xấu nội bảng là 162,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 4,11% tổng dư nợ. Nợ xấu của hệ thống ngân hàng có xu hướng tăng nhanh trong các tháng đầu năm 2014 do tình hình kinh tế vĩ mô chưa có nhiều cải thiện, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp còn khó khăn, TCTD áp dụng chuẩn mực mới về phân loại nợ, phản ánh chính xác hơn chất lượng tín dụng và thực trạng nợ xấu thúc đẩy công tác xử lý nợ xấu.

Đến tháng 6/2015, thống kê từ báo cáo tài chính của nhóm NHTM cổ phần thì lợi nhuận bị bào mòn đến 46% vì chi phí dự phòng (theo dự kiến chỉ là 20%). Như vậy có thể khẳng định các ngân hàng đã tăng cường sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro và số dự phòng trích trong năm không theo kịp tốc độ tăng nợ xấu nên quỹ dự phòng đang có xu hướng giảm. Tháng 7/2015, VAMC tiếp nhận thêm 64.000 tỷ đồng từ các TCTD, phê duyệt được 59.000 tỷ đồng với giá gốc và giá mua là

54.000 tỷ đồng, phát hành được 51.300 tỷ đồng Trái phiếu đặc biệt (TPĐB) và VAMC xử lý bán TSĐB, bán nợ, thu hồi được 6.513 tỷ đồng.

(4) Tổng tài sản hệ thống các NHTM tăng trưởng nhanh nhưng không đồng đều trong những năm qua, nhất là giai đoạn chịu sức ép tăng vốn điều lệ 2008 - 2011 của các NHTM cổ phần. Theo số liệu của NHNN Việt Nam, tính đến tháng 8/2014 thì tổng tài sản của toàn hệ thống đạt hơn 6 triệu tỷ đồng (6,066,299 tỷ đồng), tăng 4.48% so với cuối năm 2013. Trong đó, nhóm TCTD hợp tác đạt mức tăng trưởng mạnh nhất với 14.37%; Ngân hàng thương mại Nhà nước (NHTM NN) tăng trưởng cao thứ hai ở mức 6.19%, và nhóm các Ngân hàng thương mại cổ phần (NHTM CP) chỉ tăng 4.4%. Các ngân hàng liên doanh (NHLD), ngân hàng nước ngoài (NHNNG) cùng các công ty thuê tài chính thì tổng tài sản bị giảm theo tỷ lệ tương ứng 1.42% và 5.35%. Đến thời điểm tháng 1/2015, tổng tài sản có của hệ thống các TCTD lại có xu hướng giảm nhẹ 2% so với thời điểm đầu năm, tập trung vào các NHTM CP (2.67%) còn các công ty cho thuê tài chính lại tăng lên 6.55%. Nguyên nhân xuất phát từ xu hướng tái cấu

trúc các ngân hàng đang ở giai đoạn nước rút, giai đoạn 1 của đề án tái cấu trúc hệ thống các TCTD gần kết thúc, thực hiện sát nhập các ngân hàng yếu kém vào các ngân hàng lớn, NHNN mua lại một số NHTM với giá không (0) đồng, áp dụng các phương pháp tiên tiến theo chuẩn mực quốc tế nhằm nâng cao năng lực tài chính và quản trị cho cả hệ thống các ngân hàng. [Phụ lục 3.1: Hệ thống NHTM Việt Nam sau tái cơ cấu; Phụ lục 3.2: Tài sản có của các TCTD Việt Nam].

14.37%

15%


10%

6.19%

4.48%

4.40%

5%

-1.42%

-5.35%

0%


-5%


-10%

Hình 3.3: Tốc độ tăng trưởng tổng tài sản của các tổ chức tín dụng (2013 -2014)

Nguồn: Tổng hợp số liệu từ các báo cáo của NHNN [32], NHTM

(5) Vốn pháp định của các NHTM: Theo báo cáo của các NHTM thì hiện không có ngân hàng nào có vốn điều lệ thấp hơn mức vốn pháp định quy định tại Nghị định 141/2006/NĐ-CP. Tuy nhiên, thực tế có một số NHTM không có vốn điều lệ thực đạt vốn pháp định, do nguyên nhân: (i) Nhiều NHTM đã lợi dụng công cụ tạo nguồn phái sinh, tạo vốn ảo để có mức vốn điều lệ theo quy định; (ii) Một số NHTM do kinh doanh thua lỗ từ các khoản mục tín dụng, thâm hụt vốn điều lệ; (iii) Tình hình kinh doanh thua lỗ kéo dài của các công ty con, công ty liên doanh, liên kết mà NHTM góp vốn làm sụt giảm vốn điều lệ của ngân hàng.

Hiện nay, hệ thống NHTM Việt Nam đa phần là ngân hàng trong nước, chỉ có 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, phần lớn các ngân hàng Việt Nam lại có quy mô nhỏ, mức độ phức tạp trong hoạt động ngân hàng không cao, danh mục tín dụng là rủi ro tín dụng lớn nhất. Nhìn nhận lại những kết quả bước đầu trong quá trình tái cấu trúc ngân hàng, số lượng ngân hàng giảm đi (do việc sát nhập các ngân hàng nhỏ vào

các ngân hàng lớn theo đề án 254), quy mô vốn của một số ngân hàng tăng lên, thanh khoản đảm bảo, uy tín được cải thiện (sau hàng loạt các vụ án liên quan đến nhân sự cao cấp tại một số NHTM). Thống kê trong báo cáo NHNN đến 30/06/2015 hệ thống các NHTM CP chỉ còn 25 ngân hàng, giảm từ 37 NHTM CP (thời điểm năm 2010). Giải quyết vấn đề nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng của các NHTM, NHNN cho thấy những bước đi vững chắc trong xử lý dứt điểm nợ xấu của các TCTD. Giai đoạn 2009 – 2015 là một chặng đường không ngắn, hệ thống NHTM Việt Nam đạt được những thành quả nhất định, làm lành mạnh hóa tài chính, sẵn sàng ứng dụng các chuẩn mực quốc tế nâng cao năng lực QTRRTD.

3.1.2. Khung pháp lý về quản trị rủi ro tín dụng tại Việt Nam

3.1.2.1. Hệ thống văn bản pháp lý

Hoạt động ngân hàng là lĩnh vực luôn tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao, việc quy định các biện pháp phòng ngừa và xử lý rủi ro tín dụng là rất cần thiết. Đánh giá chung về khung pháp lý liên quan đến QTRRTD trong thời gian qua đã có những bước tiến vượt bậc, điển hình như: Luật NNHN và Luật các TCTD sửa đổi 2010; Nghị định số 59/2009/NĐ-CP; Thông tư 13/2010/TT-NHNN (nay là Thông tư 36/2014/TT-NHNN); thông tư 19/2010/TT-NHNN quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng; Thông tư số 44/2011/TT-NHNN quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ của TCTD, Ngân hàng nước ngoài (NHNNG); Nghị định 59/2009/NĐ-CP, thông tư 40/TT-NHNN quy định về tổ chức và hoạt động của NHTM; Thông tư 21/TT- NHNN (2010) quy định về chế độ và phương thức báo cáo thống kê.

Về chính sách phân loại nợ và trích lập dự phòng, căn cứ vào quy định của NHNN, việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng được quy định rất chi tiết trong các văn bản pháp luật Việt Nam, cụ thể:

Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN [42 ]ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước: Ban hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng;

Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước: Về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về phân loại nợ,

trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ – NHNN;

Thông tư số 14/2014/TT-NHNN ngày 20/05/2014: Sửa đổi, bổ sung một số điều của quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN;

Ngày 21/01/2013, NHNN đã ban hành Thông tư số 02/2013/TT-NHNN về việc phân loại tài sản có, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tín dụng (Thông tư 02), Thông tư 02 được chính thức áp dụng cho các NHTM từ tháng 4/2014 với các đặc điểm: (i) Quy định chặt chẽ hơn về phân loại nợ của hoạt động tín dụng, (ii) Nâng cao trách nhiệm của TCTD với trung tâm tín dụng CIC, (iii) Quy định chặt chẽ hơn đối với điều chỉnh các nhóm nợ ; (iv) Quy định chặt chẽ hơn về cách tính dự phòng , (v) Quy định chặt chẽ hơn về giá trị khấu trừ của tài sản đảm bảo. Theo quy định của Thông tư 02, phân loại nợ được xác định ở phạm vi rộng hơn; thống nhất về phương pháp định lượng theo tiêu chuẩn quốc tế cho toàn hệ thống. Giá trị TSĐB được quy định chặt chẽ, rõ ràng hơn trước. Theo cách phân loại nợ mới, số nợ xấu của toàn hệ thống tăng cao hơn, nguy cơ nhiều doanh nghiệp lớn sẽ gặp khó khăn trong vay vốn, ảnh hưởng kết quả kinh doanh và lợi nhuận ngân hàng giảm sút do phải trích lập dự phòng cao; các NHTM cần thay đổi chiến lược kinh doanh; đồng thời, NHNN nâng cao năng lực giám sát và VAMC nâng cao năng lực thẩm định. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng xây dựng được các chính sách quan trọng liên quan đến QTRRTD. Trong các chính sách mà các ngân hàng áp dụng có thể chia thành hai nhóm như sau:

(i) Nhóm các chính sách được ngân hàng cụ thể hóa từ các quy định trong Luật Các Tổ chức tín dụng và các văn bản dưới luật. Trong nhóm này, chính sách mà ngân hàng cụ thể hóa từ các quy định pháp luật gồm có chính sách về giới hạn cấp tín dụng, chính sách trích lập dự phòng RRTD. Các ngân hàng đưa ra các giới hạn cấp tín dụng cho một khách hàng, nhóm khách hàng, quy định về không cấp tín dụng, hạn chế cấp tín dụng cho một số đối tượng đặc biệt như thành viên HĐQT, Ban kiểm soát nhằm tránh tập trung vốn quá nhiều cho một chủ thể, đối tượng.

(ii) Nhóm các chính sách do chính các NHTM tự xây dựng phù hợp với điều kiện riêng của từng ngân hàng. Trong nhóm này, các NHTM thường xây dựng các

quy định chi tiết hơn và mang tính chất nội bộ như: chính sách tín dụng, sổ tay tín dụng, cẩm nang tín dụng với các nội dung định hướng cho QTRRTD như quy định về điều kiện khách hàng vay vốn, quy trình cấp tín dụng với các nội dung kiểm soát trước, trong và sau khi cấp tín dụng, quy trình xử lý nợ xấu, nợ có vấn đề.

Luật Các tổ chức tín dụng được Quốc hội thông qua vào ngày 16/6/2010, ban hành vào ngày 29/6/2010 và có hiệu lực thi hành vào ngày 01/01/2011, đã đưa ra nhiều quy định mới về tổ chức quản trị điều hành trong ngân hàng. Theo Luật, hầu hết các NHTM Việt Nam xây dựng được mô hình tổ chức hướng theo thông lệ quốc tế, chú trọng QTRR trong đó có QTRRTD. Cụ thể ở tất cả các ngân hàng đều hình thành Ủy ban quản lý rủi ro, với vai trò tư vấn cho HĐQT, Hội đồng thành viên trong vấn đề liên quan đến QTRR (theo điểm 6, điều 43 Luật Các tổ chức tín dụng). Đây là một nội dung có ý nghĩa hết sức mới trong hoạt động của các ngân hàng Việt Nam, tạo tiền đề để từng bước hướng theo chuẩn mực quốc tế về quản trị rủi ro. Cùng với việc hình thành Ủy ban quản lý rủi ro, các NHTM Việt Nam (đa phần là các ngân hàng NHTMCP như ACB, Sacombank, Techcombank, VPBank) đã thực hiện mô hình QTRRTD tập trung. Theo mô hình này, khối quản trị rủi ro của ngân hàng tập trung tại Hội sở chính, có nhiệm vụ vừa xây dựng cơ chế, chính sách, trực tiếp giám sát QTRRTD và các rủi ro khác liên quan. Tại các chi nhánh hình thành bộ phận quản lý rủi ro là thành phần của khối QTRR theo hàng dọc. Điểm thuận lợi của mô hình tập trung là tạo điều kiện để hình thành hệ thống QTRR đồng bộ, thống nhất trên quy mô của toàn ngân hàng. Mặt khác, đảm bảo tính độc lập và tập trung của khối, bộ phận QTRR theo xu hướng hiện đại.

3.1.2.2. Mức độ áp dụng quy trình, chính sách quản trị rủi ro tín dụng theo Basel của các Ngân hàng thương mại Việt Nam

Hàng loạt các văn bản pháp luật đã được sửa đổi hoặc ban hành mới nhằm tạo một môi trường kiểm soát rủi ro tốt hơn, ràng buộc các NHTM hoạt động trong một khuôn khổ an toàn hơn. Đối với hệ thống các NHTM Việt Nam, bên cạnh việc tuân thủ các quy định bắt buộc của NHNN, các NHTM đang hoàn thiện hệ thống QTRR theo thông lệ quốc tế, cụ thể là quy định tại Basel II, Basel III. Tuy nhiên việc áp dụng Basel tại các NHTM Việt Nam còn chưa đồng bộ, đầy đủ, thể hiện theo từng trụ cột trong Basel II:

(i) Trụ cột 1: Vốn yêu cầu tối thiểu (CAR). Quy định về an toàn vốn tối thiểu quy định theo Thông tư 13 chỉ đáp ứng chuẩn mực yêu cầu vốn của Basel I, chủ yếu chỉ hướng đến hoạt động QTRRTD, chưa đề cập đến định hạng tín dụng, rủi ro tác nghiệp và rủi ro thị trường;

(ii) Trụ cột 2: Quy trình đánh giá giám sát, quy trình này trong Basel không chỉ để đảm bảo rằng ngân hàng có đủ vốn để giải quyết các rủi ro trong hoạt động kinh doanh mà còn khuyến khích ngân hàng phát triển và sử dụng các kỹ thuật quản lý rủi ro tốt hơn. Tuy nhiên, hệ thống giám sát tài chính tại Việt Nam, theo nhận định của các chuyên gia, chưa được xây dựng theo mô hình đồng bộ, chức năng Cơ quan giám sát tài chính quốc gia còn mờ nhạt, trong khi thanh tra ngân hàng chưa đảm bảo tính độc lập;

(iii) Trụ cột 3: Kỷ luật thị trường. Hiện nay tại Việt Nam đã có các quy định về việc các tổ chức tài chính phải thực hiện công khai minh bạch thông tin, cụ thể: Quyết định số 1407/2004/QĐ-NHNN quy định các NHTM CP phải công bố công khai các thông tin trong báo cáo tài chính năm; Công văn số 450/UBCK-PTTT về việc công bố thông tin của NHTM CP khi niêm yết cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường chứng khoán; Luật chứng khoán quy định về công bố thông tin trên thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, việc công bố thông tin còn chưa thực sự cụ thể, các thông tin về cơ cấu vốn, đánh giá rủi ro, mục tiêu, chính sách quản lý rủi ro, khẩu vị rủi ro chưa quy định công khai.

Báo cáo đánh giá mức độ sẵn sàng của NHNN Việt Nam và đề xuất lộ trình triển khai Basel II tại Việt Nam [10], đã đánh giá mức độ tuân thủ của hệ thống giám sát ngân hàng Việt Nam đối với các nguyên tắc nêu tại Basel II theo 3 mức độ (i) Tuân thủ; (ii) Tuân thủ một phần; (iii) Chưa tuân thủ. Báo cáo cho thấy phần lớn các chính sách và nguyên tắc QTRR tại NHTM Việt Nam chưa tuân thủ hoặc tuân thủ một phần theo Basel II, cụ thể như: Nguyên tắc 6 về an toàn vốn tối thiểu; Nguyên tắc 7 về quy trình quản lý rủi ro, theo đó hệ thống QTRR bao gồm tập hợp các cơ cấu tổ chức, phân cấp ủy quyền, chiến lược, chính sách, quy trình, hạn mức rủi ro, hệ thống thông tin quản lý để nhận diện, đo lường, đánh giá và kiểm soát rủi ro. Các nội dung này chưa được đề cập chi tiết trong văn bản pháp luật của Việt Nam; Nguyên tắc 8,9 về rủi ro tín dụng, tài sản có rủi ro được thể hiện trong nội dung của Thông tư 02 về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro, nhưng việc các NHTM có thực hiện đánh

Xem tất cả 129 trang.

Ngày đăng: 21/04/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí