cao hiệu quả các hệ thống, quy trình, quy định đã ban hành. Các chức năng của bộ máy KTNB cần được thực hiện trên toàn bộ các loại rủi ro của ngân hàng, chứ không chỉ RRTD do các rủi ro trong ngân hàng có mối quan hệ và tác động qua lại với nhau; thiết lập cơ chế giám sát đầy đủ đối với toàn bộ hoạt động của ngân hàng, thực hiện văn hóa giám sát toàn diện ngân hàng;
Ba là, kế hoạch KTNB căn cứ theo quy mô, mức độ rủi ro, nguồn lực nhân sự để xây dựng tần suất kiểm toán, ví dụ theo mức độ rủi ro: rủi ro cao, tần suất tối thiểu 1 lần/năm; rủi ro thấp, kiểm toán 3 năm/lần, và kế hoạch kiểm toán đột xuất theo yêu cầu;
Bốn là, nguồn nhân lực cho bộ máy KTNB: Kiểm toán viên nội bộ NTHM đáp ứng các tiêu chuẩn tại Điều 13, Quyết định số 44/2011/TT-NHNN, các kiểm toán viên cần được đào tạo về các nghiệp vụ đặc thù, chuyên sâu ngành ngân hàng đáp ứng được các yêu cầu của Basel II, tham gia thử nghiệm và kiểm tra tính đầy đủ của các thủ tục kiểm soát ở tất cả các khâu của quy trình hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng;
Năm là, hệ thống báo cáo trong bộ máy đảm bảo rằng ban lãnh đạo cấp cao của ngân hàng có thể theo dõi, đánh giá mức rủi ro hiện tại, cũng như ước lượng các yêu cầu vốn trong tương lai (Báo cáo và kiểm tra, nguyên tắc ¼ nguyên tắc chính của SRP, Basel II, [50]). Cần có cơ chế kiểm tra độc lập thường xuyên đối với ICAAP (Internal Capital Adequacy Assessment Process - Quy trình nội bộ đánh giá yêu cầu vốn tối thiểu) mà ngân hàng sử dụng. Hệ thống giám sát nội bộ của ngân hàng cần hoàn thiện theo hướng cơ bản nâng cao chất lượng đánh giá tình hình tài chính và xây dựng hệ thống cảnh báo sớm (EWS). Về cách thức xây dựng và tiếp cận ICAAP, các NHTM Việt Nam có thể thực hiện theo lộ trình tại ngân hàng OCBC.
Cuối cùng, chi phí tăng cường chức năng kiểm toán nội bộ bao gồm: Thiết lập chương trình kiểm toán theo Basel II; Đào tạo nhân sự kiểm toán; Triển khai và chạy thử, theo số liệu dự tính tại một NHTM là khoảng 1.5 triệu USD. Đây là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng, mức độ sẵn sàng của ngân hàng trong việc hoàn thiện bộ máy KTNB nhằm năng cao năng lực QTRRTD.
4.3.7. Giải pháp đối với năng lực quản trị rủi ro theo danh mục tín dụng (DMTD)
Để nâng cao năng lực QTRR theo danh mục tín dụng, các NHTM cần:
Một là, hoàn thiện hoạt động quản trị rủi ro theo danh mục tín dụng chủ động: hoạch định, giám sát, kiểm tra và điều chỉnh danh mục tín dụng phù hợp:
- Mô hình QTRRTD hiện nay chưa phù hợp với quản trị rủi ro theo danh mục tín dụng. Các NHTM cần cải thiện năng lực quản trị điều hành, trong đó bộ máy tổ chức với hai Ủy ban chiến lược và Ủy ban quản lý rủi ro hoạt động có nhiệm vụ tư vấn chiến lược cho Hội đồng quản trị còn mờ nhạt, thậm chí chưa có tại một số NHTM. Xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp, sử dụng phương pháp quản trị danh mục tín dụng chủ động theo kế hoạch kinh doanh tổng thể, xây dựng, lựa chọn danh mục tín dụng mang lại hiệu quả, đồng thời nâng cao năng lực QTRRTD theo danh mục tín dụng của ngân hàng;
- Các Ủy ban này cần được tham gia vào việc thông qua tất cả các chính sách liên quan đến QTRR theo danh mục tín dụng như : chính sách đa dạng hóa, trích lập dự phòng, chính sách giới hạn tín dụng, các quyết định điều chỉnh danh mục tín dụng và công tác kiểm tra, giám sát việc thực hành các chính sách ban hành;
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh Giá Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Vpbank Hiện Nay So Với Khung Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng
- Định Hướng Hoạt Động Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Trong Thời Gian Tới
- Giải Pháp Đối Với Năng Lực Nguồn Nhân Lực (Nlnl)
- A: So Sánh Sự Khác Biệt Của Basel I Và Basel Ii Trong Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng
- Nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế tại ngân hàng thương mại Việt Nam - 15
- Nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế tại ngân hàng thương mại Việt Nam - 16
Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.
- Công tác QTRR theo danh mục cần được đảm bảo tính độc lập và tập trung của các bộ phận quản lý rủi ro. Tính độc lập là sự tuân thủ triệt để nguyên tắc tách rời giữa bộ phận tạo rủi ro và bộ phận kiểm soát rủi ro. Tính tập trung là đảm bảo các loại hình rủi ro không bị chia nhỏ, các thông tin về rủi ro cần tập trung để nghiên cứu, đánh giá, quản lý một cách hiệu quả.
Hai là, thông tin mang tính dự báo giúp các nhà quản trị hoạch định chiến lược một cách chủ động. Thiếu cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin khách hàng không đáp ứng là một trong những hạn chế đối với năng lực QTRRTD đã được đề cập tại chương 3. Muốn khắc phục hạn chế này, các NHTM cần tiếp tục hoàn thiện chức năng thu thập thông tin: (i) Thông tin dự báo cho công tác quản trị, hoạch định, xây dựng và quản lý danh mục tín dụng; (ii) Hệ thống các báo cáo phục vụ điều hành, thông tin truyền thông nội bộ theo chiều ngang lẫn chiều dọc nhằm nhận diện, đánh giá rủi ro quản lý danh mục tín dụng
Ba là, do QTRR theo danh mục tín dụng gồm các nội dung phức tạp về định lượng, chương 2 và chương 3 có đề cập đến việc sử dụng các mô hình đo lường rủi ro danh mục tín dụng theo thông lệ quốc tế và các chuẩn mực Basel II. Các mô hình này chỉ ra rằng, các nhà quản trị không chỉ nhận diện mà phải định lượng được các rủi ro biến đổi trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh. Do xuất phát điểm của hệ
thống NHTM Việt Nam thấp so với các ngân hàng thế giới, nên tác giả đề xuất giải pháp xây dựng mô hình biến cố vỡ nợ với 3 cấu phần chủ chốt: (i) Bộ phận thứ nhất: Hệ thống XHTD nội bộ của các NHTM theo chuẩn mực quốc tế, đóng vai trò là nguồn dữ liệu đầu vào gồm: về khoản vay, dữ liệu danh mục; (ii) Bộ phận thứ hai chính là đo lường và lượng hóa rủi ro tín dụng là dữ liệu đầu ra của mô hình gồm: tổn thất kỳ vọng, tổn thất không kỳ vọng, giá trị vốn có thể bù đắp tổn thất không kỳ vọng; (iii) Bộ phận thứ ba là hệ thống các báo cáo nội bộ thông qua các phép thử stress testing, Back-testing để điều chỉnh danh mục tín dụng phù hợp và kịp thời.
Điều kiện để áp dụng được mô hình là các NHTM cần chủ động hoàn thiện nâng cao và hoàn thiện cơ sở hạ tầng tin học, năng lực xây dựng và vận hành các công cụ đo lường rủi ro tín dụng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống XHTD nội bộ, hỗ trợ cho quản trị giao dịch tín dụng và tạo tiền đề áp dụng phương pháp quản trị danh mục hiện đại.
4.3.8. Giải pháp đối với năng lực quản trị rủi ro theo khoản cấp tín dụng (KCTD)
Năng lực QTRR theo khoản cấp tín dụng là khả năng giảm thiểu rủi ro đối với từng khoản tín dụng của ngân hàng thông qua việc tuân thủ hệ thống chính sách và quy trình thẩm định để hạn chế rủi ro lựa chọn, thực hiện thẩm định khách hàng theo đúng tiêu chí đánh giá cũng như sử dụng các tiêu chuẩn bảo đảm cho quá trình thực hiện giao dịch tín dụng (giảm thiểu rủi ro đảm bảo). Từ thực trạng phân tích trong chương 3về năng lực QTRR theo khoản cấp tín dụng cho thấy thực tế các NHTM mới chỉ thực hiện bước đầu tiên trong quy trình QTRRTD (hình 2.1), để các chính sách và quy trình thẩm định được tuân thủ, các ngân hàng cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện khung quản trị rủi ro theo đúng quy trình QTRRTD. Các bước tiếp theo trong quy trình đó là đo lường rủi ro, quản lý rủi ro, và kiểm soát rủi ro cần phải thực hiện triệt để thông qua:
(i) Hoàn thiện hệ thống XHTD nội bộ, các mô hình đo lường định lượng rủi ro tín dụng (nâng cao năng lực xây dựng và vận hành các công cụ đo lường rủi ro tín dụng – CCDL); (ii) Thiết lập các chính sách tín dụng phù hợp, thiết lập bộ máy tổ chức, quản lý, xây dựng khung quản trị rủi ro theo thông lệ quốc tế (năng lực về Quản trị điều hành – QTDH); (iii) Phân tán, hạn chế rủi ro thông qua đa dạng hóa danh mục (năng lực QTRR theo danh mục tín dụng – DMTD); (iv) Kiểm soát rủi ro tín dụng thông qua công tác giám sát, kiểm tra kiểm toán nội bộ (năng lực bộ máy kiểm toán nội bộ - KTNB) ; (v) Yếu tố con người là một trong những nguyên nhân, hạn chế tác động đến năng lực
QTRR theo khoản cấp tín dụng, do đó trình độ, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ tín dụng, cán bộ quản lý rủi ro tín dụng cần thường xuyên nâng cao thông qua đào tạo, tự đào tạo (năng lực nguồn nhân lực – NLNL);
Như vậy, năng lực QTRR theo từng khoản cấp tín dụng và các nhân tố năng lực còn lại có mối quan hệ phụ thuộc, hỗ trợ các nhân tố năng lực khác trong Khung năng lực QTRRTD theo thông lệ quốc tế đã được xây dựng tại chương 2 và phân tích thực trạng tại chương 3.
4.4. Kiến nghị đề xuất đối với Cơ quan quản lý, Ngân hàng nhà nước
4.4.1. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật
Qua phân tích đánh giá tại chương 3, một trong những nguyên nhân của thực trạng năng lực QTRRTD tại các NHTM Việt Nam là xuất phát điểm thấp so với các ngân hàng phát tiên tiến, hệ thống văn bản pháp luật về QTRR nói chung và QTRRTD nói riêng còn nhiều bất cập, thiếu thống nhất và chồng chéo. Để khắc phục hạn chế này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam cần phải ban hành những văn bản hướng dẫn thực hiện QTRRTD theo thông lệ quốc tế chi tiết, phù hợp với điều kiện thị trường Việt Nam, bao trùm các nội dung 3 trụ cột chính của Basel II, nghiên cứu các yêu cầu Basel III nếu có thể áp dụng đồng thời:
Trụ cột 1 - Yêu cầu về vốn an toàn tối thiểu, theo quy định là 8% đối với các nước OECD, Việt Nam đang để mức 9%, tuy nhiên mức 9% sẽ không thể đáp ứng khi xác định theo đúng công thức Basel II, chưa nói đến Basel III. Như vây, Việt Nam nên để lộ trình tăng CAR từ 2016 đến 2019 tối thiểu 10.5% (mức mà Ngân hàng Ấn Độ đã triển khai và thành công), hoặc cao hơn.
Trụ cột 2 – Quy trình đánh giá giám sát, hoàn thiện các quy định về giám sát ngân hàng theo Basel II
Các cơ quan chủ quản cần tuân theo các nguyên tắc giám sát của Basel II : (i) Các cơ quan chủ quản cần kiểm tra, đánh giá các chiến lược và công tác đánh giá mức an toàn vốn nội bộ của ngân hàng, khả năng của các ngân hàng trong việc giám sát, đảm bảo tuân thủ các quy định về các tỷ lệ vốn; (ii) Các cơ quan chủ quản nên yêu cầu các ngân hàng duy trì các chỉ số an toàn ở mức cao hơn các tỷ lệ vốn điều chỉnh tối thiểu và phải có khả năng yêu cầu các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối thiểu; (iii) Các cơ quan chủ quản có biện pháp can thiệp ngay ở giai đoạn đầu tiên, ngăn không cho mức vốn bị rớt xuống thấp hơn mức tối thiểu để giải quyết
những thuộc tính rủi ro của một ngân hàng nhất định và có hành động giải quyết tức thời nếu vốn không duy trì hoặc không hồi phục được.
Trụ cột 3 – Kỷ luật thị trường, minh bạch thông tin
Các NHTM phải xây dựng niềm tin của khách hàng, nhà đầu tư, do đó Cơ quan Nhà nước cần sớm đưa ra bộ tiêu chuẩn đánh giá các quy định công khai thông tin chặt chẽ theo quy định Basel II đối với rủi ro tín dụng và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với rủi ro tín dụng.
Các cơ quan quản lý, NHNN nhanh chóng hoàn thiện khung pháp lý đầy đủ hơn để các NHTM có căn cứ để thực hiện XHTD nội bộ theo hướng thông lệ quốc tế, đưa ra một lộ trình rõ ràng đảm bảo tất cả các NHTM đều phải tuân thủ, qua đó thúc đẩy công tác hoàn thiện hệ thống XHTD nội bộ tại mỗi ngân hàng. Xây dựng các quy định pháp lý, hình thành thị trường cho các công cụ tín dụng phái sinh. Công cụ tín dụng phái sinh cần có một cơ chế giám sát hữu hiệu và hành lang pháp lý chặt chẽ thì mới phát huy được hiệu quả ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro tín dụng nên rất cần nhà nước ban hành các quy định pháp lý phù hợp.
Các văn bản pháp luật cần chỉnh sửa/ bổ sung: (i) Quy định đảm bảo an toàn chung (điều chỉnh lại phương pháp tính hệ số CAR trong thông tư 13 theo phương pháp tiên tiến của Basel II); (ii) Quy định rủi ro tín dụng (Quy định phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro: điều chỉnh Thông tư 02, 09 cho phù hợp với giai đoạn tái cơ cấu nền kinh tế hiện nay, thống nhất các khái niệm theo thông lệ quốc tế; Quy định về giới hạn cấp tín dụng nhằm hạn chế rủi ro vào một khách hàng, minh bạch hóa việc cấp tín dụng, tránh sở hữu chéo, yêu cầu các NHTM đánh giá và theo dõi thường xuyên các yếu tố tác động).
4.4.2. Hỗ trợ nâng cao năng lực tài chính cho các NHTM
Quy mô vốn và tài sản của các NHTM Việt Nam dù tăng nhanh trong thời gian qua, nhưng so với các ngân hàng trong khu vực còn rất nhỏ, nợ xấu chưa được xử lý triệt để, tốc độ tăng trường tín dụng nhanh nhưng không hiệu quả là nguyên nhân hạn chế năng lực QTRRTD của các NHTM. Dưới giác độ cơ quan quản lý nhà nước, Ngân hàng Nhà nước cần quản lý, hỗ trợ thực hiện các biện pháp nâng cao năng lực tài chính cho hệ thống ngân hàng, cụ thể:
Tiếp tục đẩy mạnh xử lý triệu để nợ xấu
Một là, minh bạch về số liệu nợ xấu: Triển khai biện pháp kiểm tra và giám sát chặt chẽ hoạt động của từng TCTD, đảm bảo các thông tin về nợ xấu do các tổ chức này cung cấp phải hợp lệ với quy định của quy định pháp luật
Hai là, nâng cao vai trò của VAMC: Bổ sung một số quyền cho VAMC trong việc phát mãi tài sản; Cần có nguồn vốn lớn hơn nữa và dài hạn để VAMC mua nợ xấu theo giá thị trường; Tăng cường sự phối hợp giữa VAMC với các công ty quản lý tài sản (AMC) của các NHTM và công ty TNHH mua bán nợ Việt Nam (DATC).
Ba là, hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, đẩy nhanh việc xây dựng thị trường mua bán nợ xấu nhằm thúc đẩy việc bán và thu hồi nợ xấu: cần phát triển một hệ thống pháp lý cho phép nợ xấu được thu hồi nhanh chóng và dứt khoát nhằm thúc đẩy hoạt động thu hồi nợ xấu và gia tăng số lượng nhà đầu tư mua nợ xấu.
Thị trường mua bán nợ xấu, có thể phát triển trên nền tảng thị trường mua bán nợ hiện nay, bổ sung thêm “nợ xấu” vào danh mục hàng hóa, tập trung sẽ gồm các hoạt động: mua bán nợ (xấu); dịch vụ môi giới mua bán nợ; dịch vụ sàn giao dịch nợ; và dịch vụ tư vấn mua bán nợ. Để phát triển trên nền tảng thị trường mua bán nợ hiện tại thì trước hết:
(i) Phải đảm bảo nguồn cung hàng hóa, tức các món nợ xấu, không bị gián đoạn tại một thời điểm nào đó do bất kỳ lý do chủ quan nào. Cụ thể hơn, thị trường mua bán nợ sẽ phát triển lành mạnh khi có hàng hóa đa dạng, ở quy mô đủ lớn, rõ ràng về nguồn gốc, hấp dẫn người mua tiềm năng;
(ii) Hàng hóa mua bán trên thị trường nợ xấu cần phải theo quy luật cung – cầu thị trường. NHNN ban hành Thông tư 09 quy định về hoạt động mua, bán nợ của các tổ chức tín dụng. Thông tư sẽ có hiệu lực từ ngày 1/9 và thay thế Quyết định 59/2006/QD-NHNN ban hành ngày 21/1/2006. Mục đích chính của thông tư này là quy định và kiểm soát hoạt động mua/bán lại nợ xấu của các TCTD trong hệ thống ngân hàng. Thông tư xác định đối tượng được phép bán nợ và sau đó là đối tượng có thể mua nợ, tránh những lạm dụng có thể trên thị trường này. Do vậy cần có quy định pháp lý rõ ràng, ban hành nghị quyết hoặc đạo luật riêng về xử lý nợ xấu: Luật riêng về xử lý nợ xấu sẽ khắc phục được tình trạng việc xử lý TSĐB phải dựa vào nhiều luật có liên quan như hiện nay gồm: Bộ luật Tố tụng dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự gây nên chồng chéo, tiến độ giải quyết chậm và phức tạp.
Hỗ trợ các giải pháp tăng vốn của các NHTM
Thứ nhất, tăng vốn thông qua cổ phần hóa và trên thị trường chứng khoán:
(i) Các cơ quan quản lý, NHNN cần tạo điều kiện để tăng vốn cho các NHTM nhằm đáp ứng yêu cầu theo chuẩn mực Basel II sẵn sàng chống đỡ, giảm thiểu khi rủi ro hệ thống xảy ra; (ii) Các cơ quan quản lý, NHNN cần sửa đổi bổ sung và ban hành các quy định về thị trường trái phiếu ngân hàng, cổ phiếu, cần có cơ chế đảm bảo
hoạt động hiệu quả của thị trường chứng khoán. Ngoài ra, điều chỉnh/bổ sung các quy định về giới hạn vốn góp, mua cổ phần (bổ sung các khái niệm vốn góp, mua cổ phần, các tỷ lệ, giới hạn nắm giữ) tạo điều kiện cho việc triển khai các giải pháp tái cơ cấu hệ thống Tổ chức tín dụng.
Thứ hai, nâng cao năng lực vốn bằng mua bán, sáp nhập, yêu cầu đối với NHNN, bao gồm: (i) Rà soát và hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động hợp nhất, sáp nhập giữa các NHTM có nhu cầu tự nguyện và có yêu cầu bắt buộc; (ii) Có chiến lược phát triển NHTM phù hợp cả về số lượng, năng lực tài chính, từ đó NHNN xây dựng chính sách điều hành kinh tế theo đúng mục tiêu vĩ mô đã xây dựng nhằm giúp các NHTM đi theo đúng mục tiêu, các NHTM phải tăng vốn điều lệ trước rồi mới xin cấp phép mở rộng hoạt động kinh doanh; (iii) Hạn chế tối đa việc sáp nhập theo công thức cộng nghĩa là các NHTM yếu kém sáp nhập với nhau để tạo thành khu vực NHTM yếu kém từ đó các cơ quan quản lý xây dựng giải pháp kiểm soát các ngân hàng này để đạt mục đích về số lượng NHTM theo lộ trình thời gian; và (iv) Đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng thông qua việc cho phép các nhà đầu tư nước ngoài, các tổ chức tài chính, ngân hàng nước ngoài có năng lực tài chính, công nghệ, trình độ, kinh nghiệm quản trị nắm giữ cổ phần và tham gia quản trị các NHTM Việt Nam.
4.4.3. Quản lý hiệu quả hệ thống thông tin quản trị rủi ro tín dụng toàn hệ thống ngân hàng
Kết quả phân tích và khảo sát tại chương 3 cho thấy, một trong những vấn đề khó khăn trở ngại trong quá trình triển khai Basel II nhằm nâng cao năng lực QTRRTD tại các NHTM Việt Nam là nền tảng công nghệ thống tin, cơ sở dữ liệu thiếu và không đồng bộ, khó có thể đáp ứng việc xây dựng các mô hình đo lường rủi ro tín dụng. Cơ quan quản lý, NHNN có vai trò quan trọng trong việc điều phối, hỗ trợ các NHTM khắc phục khó khăn này:
Thứ nhất, NHNN cần có quy định cụ thể khuyến khích các NHTM sử dụng phương pháp thống kê để lượng hóa rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế. Việc này sẽ đảm bảo cho các NHTM Việt Nam hoạt động chuyên nghiệp, an toàn hơn. NHNN cần chủ trì là đầu mối xây dựng Trung tâm dữ liệu cho toàn hệ thống các NHTM Việt Nam. Đồng thời, ban hành bộ chỉ tiêu để NHTM xây dựng hệ thống cảnh bảo sớm (EWS). xây dựng EWS cho cả hệ thống, hướng dẫn và yêu cầu các NHTM tự xây dựng EWS để cảnh bảo sớm rủi ro, giúp nâng cao năng lực QTRRTD.
Thứ hai, nâng cao vai trò của CIC và các tổ chức xếp hạng tín nhiệm độc lập
Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của NHNN là nơi lưu trữ tập trung dữ liệu, ngày càng hoàn thiện và phát triển, đóng vai trò cung cấp, xây dựng nền tảng hệ thống thông tin khách hàng, thực hiện phân tích, xếp hạng tín dụng. Tuy nhiên chất lượng và số lượng thông tin chưa thực sự đáp ứng kịp thời và chuẩn hóa theo các quy định của Basel II. Trong thời gian tới, Cơ quản quản lý, NHNN cần nâng cao vai trò của CIC thông qua lưu trữ và cung cấp thông tin chính xác, kịp thời và đầy đủ, giúp các NHTM có thêm cơ sở pháp lý đưa ra các quyết định tín dụng, quản lý và giảm thiểu rủi ro phát sinh.
Ngoài ra, cơ quan quản lý Nhà nước, NHNN nên có chính sách khuyến khích thành lập các đơn vị xếp hạng độc lập làm cơ sở tham chiếu chung trong công tác đánh giá rủi ro khách hàng của các NHTM; Các chính sách bắt buộc các doanh nghiệp (kể cả các doanh nghiệp chưa niêm yết) công khai thông tin. Yêu cầu các doanh nghiệp phải hoạt động minh bạch nhờ đó các NHTM có thông tin đảm bảo để đo lường rủi ro tín dụng được chính xác.
4.4.4. Hoàn thiện, đổi mới mô hình giám sát, ổn định tài chính quốc gia
Hoạt động kinh doanh của NHTM đang được giám sát bởi NHNN theo những quy định có tính chất pháp lý cao. Các quy định pháp luật này tại Việt Nam sẽ do Quốc hội ban hành, chính NHNN lại được Quốc hội giao cho việc ban hành các quy định pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh ngân hàng. Như vậy, NHNN vừa ra luật hoạt động cho các ngân hàng, vừa kiểm tra, thanh tra. Ở một khía cạnh nào đó việc này giúp cho NHNN hiểu rõ được hoạt động kinh doanh thì việc thanh tra sẽ thuận lợi, nhưng chính điều đó cũng khiến cho công tác kiểm tra và giám sát thiếu tính khách quan. Theo nguyên tắc luật thì chức năng lập pháp và hành pháp nên được tách biệt. Hoạt động kinh doanh ngân hàng muốn hiệu quả, công tác giám sát an toàn hoạt động khách quan thì các ngân hàng cần quản lý theo đúng bản chất pháp luật từ ban hành, xây dựng pháp luật, điều chỉnh hành vi xây dựng pháp luật gắn với bản chất hoạt động. Về mô hình giám sát: Theo nguyên tắc số 24 về giám sát hợp nhất của Basel [5,
57], về “Các nguyên tắc chính trong giám sát ngân hàng hiệu quả”, cơ quan giám sát phải giám sát nhóm ngân hàng trên cơ sở hợp nhất, giám sát đầy đủ và khi cần phải áp dụng các tiêu chuẩn đảm bảo an toàn. Cơ quản quản lý, NHNN cần xem xét xây dựng hệ thống giám sát tài chính quốc gia hợp nhất thực hiện giám sát chéo các lĩnh vực kinh tế là ngân hàng, tài chính và bảo hiểm. Ngoài ra, Việt Nam cần đẩy mạnh hợp tác quốc tế, tăng cường trao đổi thông tin với cơ quan giám sát ngân hàng nước ngoài để học hỏi kinh nghiệm.
Tóm lại, trong chương 4, Luận án căn cứ vào khung lý luận của chương 2,
các nguyên nhân thực trạng tại chương 3 là tiền đề cho các giải pháp đề xuất nhằm nâng cao 8 nhân tố năng lực QTRRTD trong khung năng lực QTRRTD theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II, bao gồm: Giải pháp đối với năng lực xây dựng và vận hành các công cụ đo lường rủi ro tín dụng (CCDL); Giải pháp đối với năng lực tài chính (NLTC); Giải pháp đối với năng lực quản trị điều hành (QTDH); Giải pháp đối với năng lực nhân lực (NLNL); Giải pháp đối với năng lực cơ sở hạ tầng tin học (HTTH); Giải pháp đối với năng lực bộ máy kiểm toán nội bộ (KTNB); Giải pháp đối với năng lực QTRR theo danh mục tín dụng (DMTD); Giải pháp đối với năng lực QTRR theo khoản cấp tín dụng (KCTD). Bên cạnh đó, Luận án đã đề xuất một số khuyến nghị đối với Cơ quan quản lý, NHNN với vai trò quản lý tổng thể nền kinh tế, nhằm hỗ trợ các NHTM áp dụng thành công chuẩn mực Basel II để nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng.
KẾT LUẬN
Trong hoạt động của ngân hàng thương mại, quản trị rủi ro nói chung và quản trị rủi ro tín dụng nói riêng là công việc hết sức phức tạp. Năng lực quản trị rủi ro nói chung và quản trị rủi ro tín dụng nói riêng mang ý nghĩa sống còn đối với các ngân hàng thương mại Việt Nam. Năng lực quản trị rủi ro tín dụng không chỉ là các năng lực quản trị điều hành, tầm nhìn hoạch định chiến lược lâu dài, năng lực về xây dựng và áp dụng các công cụ đo lường rủi ro tín dụng, năng lực quản trị rủi ro theo từng khoản cấp tín dụng, theo danh mục tín dụng, mà còn là sự sẵn sàng về cơ sở hạ tầng tin học với năng lực vốn và tài chính. Thực tế phân tích cho thấy, hầu hết các năng lực này tại ngân hàng thương mại Việt Nam đều còn thiếu, nếu có, cũng chưa đồng bộ theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II.
Xuất phát từ nhận định như vậy, Luận án đã đặt ra mục tiêu nghiên cứu năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế. Với kết cấu 4 chương, Luận án đã đạt được các kết quả sau:
Một là, từ nghiên cứu lý thuyết và thực tế tại các ngân hàng trên thế giới có thể thấy rằng, ứng dụng các thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II vào quản trị rủi ro tín dụng mang lại những hiệu quả nhất định, chất lượng tín dụng được nâng lên, năng lực quản trị tín dụng của các ngân hàng được cải thiện, phân tích mối quan hệ biện chứng giữa quản trị rủi ro tín dụng và năng lực quản trị rủi ro tín dụng.
Từ kinh nghiệm áp dụng quốc tế thành công, rút ra các bài học kinh nghiệm cho các ngân hàng thương mại Việt Nam như cần xác định năng lực quản trị rủi ro tín dụng là năng lực cốt lõi của ngân hàng; các ngân hàng thương mại nên tiến hành triển khai Basel II sớm có lộ trình rõ ràng; cần xây dựng chính sách tín dụng, quy trình tín dụng và các hệ thống văn bản pháp lý theo thông lệ quốc tế; thay đổi nhận thức của đội ngũ lãnh đạo, nhân viên thông qua văn hóa rủi ro của ngân hàng. Ngoài ra, Luận án phân tích được mối quan hệ biện chứng giữa QTRRTD và năng lực QTRRTD, xây dựng khung năng lực quản trị rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II nhằm nâng cao năng lực thực hiện quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Hai là, Luận án đã phân tích tổng thể thực trạng quản trị rủi ro tín dụng trong giai đoạn 2009- 2014. Luận án chỉ ra, trong giai đoạn này, hệ thống ngân hàng Việt Nam có nhiều biến động, chịu tác động của nhiều nhân tố. Cơ cấu tài sản, nguồn vốn của các ngân hàng thương mại thay đổi, nợ xấu, nợ quá hạn
không được xử lý triệt để. Công tác quản trị rủi ro tín dụng đã được chú trọng từ cơ chế chính sách, các quy định pháp luật, các biện pháp xử lý nợ xấu, tái cơ cấu hệ thống nhưng hiệu quả còn thấp và chưa đạt được kết quả mang tính hệ thống.
Ba là, trên cơ sở lý thuyết và phân tích thực trạng, Luận án đã đưa ra các giải pháp và một số kiến nghị để nâng cao từng năng lực trong khung năng lực quản trị rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II, nhằm cải thiện năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Những điểm mới mà Luận án đã đạt được:
Thứ nhất, Luận án hệ thống hóa cơ sở lý luận về quản trị rủi ro tín dụng và năng lực quản trị rủi ro tín dụng, phân tích mối quan hệ biện chứng giữa năng lực quản trị rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng; Xây dựng khung năng lực quản trị rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II gồm 8 nhân tố năng lực: Năng lực xây dựng và vận hành các công cụ đo lường rủi ro tín dụng, Năng lực tài chính, Năng lực quản trị điều hành, Năng lực nguồn nhân lực, Năng lực Bộ máy kiểm toán nội bộ, Năng lực Quản trị rủi ro tín dụng theo danh mục tín dụng và Năng lực quản trị rủi ro tín dụng theo khoản cấp tín dụng. Luận án phân tích mối quan hệ biện chứng giữa quản trị rủi ro tín dụng và năng lực quản trị rủi ro tín dụng.
Thứ hai, Luận án vận dụng cơ sở lý thuyết, sau khi phân tích tổng quan về hệ thống ngân hàng Việt Nam và khuôn khổ pháp lý, Luận án đi sâu phân tích về thực trạng quản trị và năng lực quản trị rủi ro tín dụng giai đoạn từ 2009 – 2014 theo các thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II vào quản trị rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam;
Thứ ba, Luận án đề xuất các giải pháp tương ứng với 8 thành phần năng lực Quản trị rủi ro tín dụng đã được xây dựng tại chương 2, và phân tích thực trạng tại chương 3. Bên cạnh nhóm giải pháp, Luận án cũng đưa ra một số giải pháp đề xuất với Ngân hàng nhà nước nhằm triển khai Khung năng lực quản trị rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II để nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Bản thân tác giả bằng sự hiểu biết và kinh nghiệm thực tế cố gắng hoàn thiện Luận án này một cách đầy đủ và ý nghĩa nhất, tuy nhiên, với các cách tiếp cận khoa học khác nhau sẽ không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Tác giả mong nhận được sự đóng góp, xây dựng của quý các thầy cô, anh chị, người đọc quan tâm.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1. Nguyễn Thị Vân Anh (2016), “Nghiên cứu các nhân tố năng lực quản trị rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế tại các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí Kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương, (số 481, tháng 11/2016), tr.42, 54-56.
2. Nguyễn Thị Vân Anh (2015), “An toàn cho hệ thống ngân hàng thông qua áp dụng Basel II”, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, (Số 07/2015), tr.42 – 46.
3. Nguyễn Thị Vân Anh (2014), “Hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng thông qua áp dụng Basel II- Nhìn từ kinh nghiệm quốc tế”, Tạp chí Thị trường Tài chính tiền tệ (Số 20, tháng 10/2014), tr.36 - 39.
4. Nguyễn Thị Vân Anh (2016), “Quản trị rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại Việt Nam theo chuẩn mực Basel II: Nghiên cứu trường hợp VPBank”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp học viện, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông
5. Nguyễn Thị Vân Anh (2016), “Triển khai Basel II tại các nước đang phát triển – sự ảnh hưởng đối với nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ”, Chuyên đề nghiên cứu khoa học cấp học viện, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông.
6. Nguyễn Thị Vân Anh (2015), “Một số giải pháp nâng cao chất lượng quản lý rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế”, Chuyên đề nghiên cứu khoa học cấp học viện, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông.
7. Nguyễn Thị Vân Anh, (2015), “Quá trình chuyển giao tri thức trong hoạt động mua bán sát nhập tại Doanh nghiệp”, Đề tài cấp Học viện, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông, thành viên tham gia.