giá rủi ro và xác định đầy đủ mức dự phòng hay không thì chưa đủ thông tin để đánh giá; Nguyên tắc 10,11 về giới hạn cho vay và rủi ro đối với nhóm khách hàng có liên quan thì hiện nay các NHTM tự xác định và báo cáo NHNN nên mức độ đánh giá không chính xác và đáp ứng theo Basel II. Ngoài ra, các tiêu chí đánh giá, đo lường, tần suất các báo cáo tín dụng, nguyên tắc về kiểm tra kiếm toán nội bộ đều chưa hoàn toàn thực hiện theo quy định, chưa thể đáp ứng đủ yêu cầu của Basel II. Đây là thực trạng không thuận lợi khi các NHTM Việt Nam trong quá trình triển khai ứng dụng Basel II, đặc biệt là nhóm 10 NHTM triển khai Basel II vào thời điểm cuối năm 2015 theo công văn 1601/NHNN-TTGSNH ngày 17/3/2014 của Ngân hàng Nhà nước về việc triển khai thực hiện quy định an toàn vốn theo Basel II. Căn cứ theo các văn bản hướng dẫn ban hành từ NHNN, các NHTM từng bước xây dựng, hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, thực hiện phân loại nợ trên kết quả đánh giá xếp hạng, tiệm cận các chuẩn mực Basel II về QTRRTD.
3.2. Thực trạng năng lực quản trị rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II
Việc áp dụng Basel II tại các quốc gia không thuộc G10 không nhất thiết phải là ưu tiên hàng đầu trong tương lai gần. Tuy nhiên, nhận thức lợi ích của việc triển khai Basel II, một số quốc gia không có đại diện trong Ủy ban Basel thành lập nhóm làm việc để đánh giá mức độ phù hợp và các vấn đề cân nhắc trong quá trình áp dụng Basel II tại các quốc gia. Việc đánh giá mức độ sẵn sàng cần bắt đầu từ các Ngân hàng trung ương của các nước (NHNN Việt Nam), sau đó ban hành các hướng dẫn thực hiện cụ thể cho các NHTM, các vấn đề bao gồm: (i) Đánh giá những ưu tiên của cơ quan giám sát quốc gia; (ii) Xác định phạm vi áp dụng Basel II; (iii) Các bước cần thực hiện để triển khai trụ cột 1, trụ cột 2, trụ cột 3; (iv) Soát xét và điều chỉnh khung pháp lý; (v) Đánh giá các nhu cầu đào tạo, nguồn lực.
Quản trị rủi ro nói chung và QTRRTD nói riêng của các NHTM Việt Nam được đánh giá chưa sát với các thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II. Mức độ phát triển của các chuẩn mực quản lý rủi ro của các ngân hàng trên thị trường Việt Nam còn sơ khai, hầu hết các ngân hàng còn đang trong giai đoạn phát triển mô hình xếp hạng tín dụng. NHNN Việt Nam lựa chọn một số NHTM thực hiện trước, cho phép các NHTM tổng cộng thời gian khoảng 2.5 năm chuẩn bị tất cả các yêu cầu hạ tầng của Basel II, 3 năm áp dụng song song với các yêu cầu hiện hành, chính thức đến 2018 sẽ
ứng dụng các phương pháp nâng cao vào QTRRTD, [10].
Tuy nhiên, hệ thống NHTM Việt Nam không thể tránh khỏi những khó khăn, rủi ro khi thực hiện ứng dụng Basel II vào QTRRTD. Kết quả khảo sát thực trạng và mức độ sẵn sàng tại 10 NHTM được lựa chọn triển khai Basel II tại Việt Nam cho thấy, ngoài những khó khăn chính, các ngân hàng trong quá trình thực hiện còn gặp khó khăn về thời gian triển khai, quan điểm của lãnh đạo cấp cao khi cân đối giữa chi phí triển khai cao và lợi ích từ QTRR theo thông lệ quốc tế và Basel II tạo môi trường, văn hóa rủi ro mới, có nhiều thay đổi so với truyền thống. Nhận thức về Basel II và tính cần thiết của nó hiện nay vẫn chưa được lan tỏa toàn hệ thống là một trong những khó khăn mà các ngân hàng đề cập đến.
Hình 3.4: Khó khăn trong quá trình triển khai Basel II tại 10 NHTM
Nguồn: Tổng hợp dựa trên khảo sát 10 NHTM, 3/2016
Thứ nhất, việc ban hành các quy tắc tính toán vốn theo phương pháp tiêu chuẩn của Basel II không phức tạp, cái khó là các hệ số rủi ro cần thiết áp dụng tại thị trường Việt Nam nói chung và 10 NHTM (Ngân hàng Ngoại thương - VCB, Ngân hàng công thương - Viettinbank, Ngân hàng Sacombank - SCB, Ngân hàng hàng hải - MSB, Ngân hàng quân đội - MB, Ngân hàng Á châu - ACB, Ngân hàng Quốc tế - VIB, Ngân hàng Kỹ thương - TCB, Ngân hàng Việt Nam Thịnh vượng- VPB, Ngân hàng đầu tư - BIDV) được chọn để triển khai Basel II. Ví dụ, theo Basel II, hệ số rủi ro áp dụng đối với trái phiếu chính phủ Việt Nam sẽ là 100% đối với xếp hạng quốc gia B+. Như vậy, việc đầu tư vào các khoản trái phiếu chính phủ Việt Nam sẽ bị tính hệ số rủi ro là 100% đối với các ngân hàng triển khai Basel II. Điều này là không hợp lý và cần được NHNN điều chỉnh cho phù hợp với hoàn cảnh cụ thể Việt Nam.
Thứ hai, liệu NHNN có kịp ban hành các văn bản quy định theo đúng thời hạn để các NHTM áp dụng hay không. Một số khó khăn mà NHNN có thể gặp trong việc ban hành các văn bản này bao gồm: (i) Việc hiểu được các quy tắc để tính toán vốn của Basel II theo phương pháp tiêu chuẩn tương đối phức tạp. NHNN cần có đội ngũ chuyên gia có hiểu biết để xây dựng, hướng dẫn và giải thích cho các NHTM. (ii) Khi áp dụng theo tiêu chuẩn Basel II, tỷ lệ an toàn vốn sẽ thấp hơn hiện tại. Một số ngân hàng trong nhóm 10 NHTM nói trên sẽ phải nắm giữ thêm vốn, tuy nhiên, nếu NHNN nới lỏng các quy định của phương pháp tiêu chuẩn theo yêu cầu Basel II, các NHTM Việt Nam có thể sẽ không được công nhận là tuân thủ Basel II khi hội nhập thị trường quốc tế.
Thứ ba, về dữ liệu đối với rủi ro tín dụng, 10 NHTM thuộc diện triển khai Basel II đều đã có hệ thống xếp hạng tín dụng (XHTD) nội bộ triển khai từ trước năm 2013 cho danh mục khách hàng doanh nghiệp. Trước đây, các ngân hàng xây dựng hệ thống XHTD nội bộ chủ yếu phục vụ mục tiêu tuân thủ quy định của NHNN, nên chất lượng dữ liệu trên hệ thống chưa thể đáp ứng theo tiêu chuẩn ngoài một số ít NHTM đã xây dựng các mô hình đo lường rủi ro theo yêu cầu của Basel II. Thời gian xây dựng các công cụ này có thể mất từ 1 đến 2 năm. Với hiện trạng dữ liệu như hiện nay, để các mô hình trên đạt tiêu chuẩn của Basel II và có thể sử dụng được trong việc đưa ra các quyết định quản lý rủi ro cần thêm một thời gian nữa.
Thứ tư, để xóa bỏ cách biệt về Basel II như trên, các NHTM sẽ phải đầu tư một ngân sách tương đối lớn. Các NHTM trước khi được cân nhắc lựa chọn triển khai thí điểm Basel II, cần ước tính chi phí triển khai riêng quản trị rủi ro tín dụng theo Basel II là khoảng 7.5 triệu đô la Mỹ (tương đương với 3.5% lợi nhuận sau thuế , phân bổ trong 5 năm) cho mỗi NHTM Việt Nam. Do đó, các NHTM tham gia triển khai và nhóm các NHTM còn lại cần có sự chuẩn bị tốt về năng lực tài chính trong thời gian sắp tới. [Phụ lục 3.3: Chi phí dự kiến áp dụng Basel II vào quản trị rủi ro tín dụng].
3.2.1. Năng lực xây dựng và vận hành các công cụ đo lường rủi ro tín dụng (CCDL)
Theo kết quả khảo sát [29], các NHTM chủ yếu đang sử dụng các công cụ truyền thống trong QTRRTD là Quản lý danh mục tín dụng (83%); Quản lý hạn mức, giới hạn tín dụng (83%) và Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro (100%). Để tăng năng lực QTRRTD, các NHTM có xu hướng tập trung nâng cao khả năng xây dựng và vận hành các công cụ đo lường rủi ro tín dụng theo các thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II.
Các NHTM đã và đang xây dựng các công cụ đo lường rủi ro hiện đại, làm cơ sở cho việc phân loại khách hàng và đánh giá RRTD. Hệ thống XHTD nội bộ được xem như là căn cứ cơ bản nhất để ngân hàng tính toán các thước đo rủi ro xác suất không trả được nợ (PD), tổn thất của ngân hàng trong trường hợp khách hàng không trả được nợ (LGD) cho từng đối tượng khách hàng, từ đó xác định các tổn thất dự kiến (EL), tổn thất ngoài dự kiến (UL) và giá trị tại rủi ro tín dụng (VaR). Đánh giá cụ thể năng lực xây dựng và vận hành các công cụ đo lường RRTD trong Khung năng lực QTRRTD của hệ thống NHTM Việt Nam như sau:
Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ
Trước khi quy định Basel ra đời thì các NHTM Việt Nam có những mô hình XHTD riêng, xây dựng dựa trên kinh nghiệm quản lý tín dụng, phê duyệt tín dụng, các tiêu chí để đánh giá rủi ro mang tính chủ quan, định tính người phê duyệt. Các quy định này đều được quy định cụ thể và ban hành trong cẩm nang Quản lý rủi ro tín dụng của các NHTM [36], [40]. Tuy nhiên, hệ thống XHTD (2009 – 2014) được các ngân hàng xây dựng chưa phát huy được tính ứng dụng của hệ thống: (i) Thứ nhất, ngân hàng thuê công ty tư vấn, với chi phí không nhỏ xây dựng hệ thống XHTD nội bộ, nhưng thông tư quy định về yêu cầu đối với hệ thống quản lý rủi ro không được ban hành đồng thời. Các NHTM không có hướng dẫn thực hiện, hệ thống XHTD của các NHTM xây dựng mang tính chất đối phó, chỉ thực hiện báo cáo nếu NHNN yêu cầu; (ii) Thứ hai, hệ thống XHTD xây dựng thời gian này mới chỉ áp dụng được nhóm khách hàng doanh nghiệp, chưa xây dựng được hệ thống XHTD đối với khách hàng cá nhân; (iii) Thứ ba, hệ thống XHTD xây dựng chủ yếu dựa trên các tiêu chuẩn mang tính chất quốc tế, chưa sát với điều kiện thực tế tại Việt Nam nên chưa phát huy được hết khả năng đánh giá rủi ro tín dụng đối với đặc thù hình thành và phát triển của các doanh nghệp Việt Nam.
Cách thức thực hiện tại các NHTM là áp dụng song song, hệ thống xếp hạng cũ (dựa trên kinh nghiệm) và hệ thống xếp hạng do công ty tư vấn xây dựng. Qua khảo sát tháng 3/2016 của tác giả, kết quả xếp hạng tín dụng tại một số ngân hàng (TCB,VPB, MB, VCB) đã được sử dụng làm căn cứ áp dụng chính sách khách hàng, đề xuất cấp tín dụng và chính sách lãi suất cho vay. Mặc dù đã ứng dụng hệ thống XHTD nội bộ cho QTRRTD nhưng chất lượng khách hàng có quan hệ tín dụng chưa tăng theo kỳ vọng, cho thấy khả năng đánh giá, dự báo rủi ro của công cụ xếp hạng là chưa cao. Thông thường sử dụng hệ số Gini, AR [34], [59] nhằm đánh giá khả năng dự báo rủi ro, xác suất loại các khách hàng xấu của các hệ thống chấm điểm (Gini
hay AR mô hình tốt thường trên 70%) các mô hình xếp hạng của các NHTM Việt Nam chỉ đạt trên dưới 50%, thậm chí khoảng 30%.
Theo kết quả khảo sát của Ngân hàng BIDV [29], có 24% ngân hàng đã chủ động nghiên cứu mô hình định lượng trong QTRRTD, 68% ngân hàng đang quan tâm và sẽ thực hiện mô hình định lượng trong QTRRTD, chỉ 2/30 ngân hàng chưa quan tâm do năng lực tài chính còn hạn chế.
Khảo sát của Luận án tháng 3/2016 tại 10 NHTM về hệ thống XHTD nội bộ đã bao gồm ước tính về PD, LGD, EAD hay chưa, cho kết quả chưa ngân hàng nào sử dụng để tính toán đồng thời cả ba tiêu chí trên trong Basel II, tuy nhiên các NHTM này đang tiến hành xây dựng để đáp ứng lộ trình triển khai Basel II vào QTRRTD.
Hình 3.5: Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ đo lường PD, LGD, EAD
Nguồn: Tổng hợp dựa trên khảo sát 10 NHTM, 3/2016
Trong số các NHTM đi đầu về việc lượng hóa rủi ro tín dụng, một số ngân hàng đã sử dụng hạng khách hàng theo hệ thống XHTD nội bộ để tính PD (phương pháp thống kê toán học chứ chưa phải phương pháp mô hình hóa theo Basel II), điển hình như ngân hàng ngoại thương VCB, ngân hàng đầu tư và phát triển BIDV, ngân hàng quân đội MB, ngân hàng quốc tế VIB. Chỉ tiêu LGD được một số ngân hàng tính toán dựa trên giá trị khoản vay, giá trị TSĐB, loại TSĐB, một số ngân hàng khác lại đưa giả định về LGD theo tỷ lệ % nhất định dựa trên nhóm nợ. Các ngân hàng này đã tính được EL nhằm ra quyết định cấp tín dụng và làm cơ sở để trích lập dự phòng rủi ro. Việc tính UL và VaR tín dụng cũng bước đầu được các ngân hàng này thử tính toán nhưng cũng chưa đem lại kết quả đáng tin cậy. Nhìn chung, các NHTM Việt Nam chưa đủ năng lực xây dựng các công cụ đo lường rủi ro tín dụng , ngay cả NHTM thuộc nhóm NHTM hàng đầu tại Việt Nam như VCB thực tế cũng
chưa tính toán được PD theo thông lệ quốc tế và Basel II - nhận định của một quản lý cao cấp tại ngân hàng Vietcombank.
Như vậy, đánh giá về năng lực đo lường của Hệ thống XHTD nội bộ tại các NHTM Việt Nam chỉ dừng lại việc tính tổn thất trong dự tính và chủ yếu chỉ dựa trên phương pháp định tính chứ chưa phải phương pháp định lượng, nguyên nhân xuất phát từ các nhân tố chính:
(i) Cơ sở dữ liệu tín dụng, cơ sở dữ liệu về khách hàng đã có nhưng chưa đủ lớn theo tiêu chuẩn chuỗi thời gian liên tục (7 năm);
(ii) Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin còn hạn chế: Các khâu thu thập, nhập thông tin vẫn phải thực hiện thủ công, tốn thời gian và nhiều sai sót dẫn đến chất lượng dữ liệu đầu vào khó kiểm soát. Các phần mền quản lý tín dụng của ngân hàng còn mang tính riêng lẻ, chưa tích hợp với nhau cũng như phần cơ sở dữ liệu hệ thống (corebanking) nên hệ thống XHTD không phát huy được chức năng dự báo, hoạch định chiến lược để phục vụ mục tiêu QTRRTD tổng thể theo thông lệ và khuyến nghị của Basel II;
(iii) Khả năng dự báo rủi ro (Hệ thống XHTD nội bộ chưa có tính phân biệt theo ngành, quy mô và sản phẩm); Khả năng lượng hóa rủi ro của hệ thống chưa cao (do hệ thống XHTD nội bộ được xây dựng theo phương pháp chuyên gia, định tính mà chưa thực sự theo thông lệ quốc tế tính toán xác suất vỡ nợ PD);
(iv) Quy trình kiểm tra, giám sát hệ thống XHTD chưa có tính chuẩn mực, chưa có quy định về cơ chế sử dụng kết quả xếp hạng, rà soát tính hiệu lực của hệ thống XHTD, kiểm toán nội bộ, giám sát của HĐQT và BĐH.
Phương pháp định lượng rủi ro tín dụng
Để triển khai Basel thành công, Việt Nam áp dụng theo cách tiếp cận không thực hiện cách làm “một phương pháp cho tất cả” mà chia nhóm áp dụng phương pháp nâng cao, nhóm áp dụng phương pháp đơn giản. Đối với rủi ro tín dụng, theo số liệu khảo sát về Basel của KPMG [70], gần một nửa các ngân hàng (47%) dự định sử dụng phương pháp tiếp cận tiêu chuẩn (SA) để tính yêu cầu vốn. Phương pháp nâng cao FIRB được sử dụng bởi 33% các ngân hàng và 20% các ngân hàng còn lại chưa quyết định sẽ theo phương pháp luận nào để tính yêu cầu vốn tối thiểu. So sánh với 47 nước thành viên trong nhóm các nước ứng dụng Basel của Ngân hàng thanh toán quốc tế (BIS) thì chỉ có dưới 20% các ngân hàng chọn phương pháp SA so
với tỷ lệ 47% ở trên của các ngân hàng Việt Nam và không có ngân hàng nào chọn phương pháp AIRB trong khi tỷ lệ này ở các nước thành viên của BIS là 40%.
Hình 3.6: Mô hình tính vốn cho rủi ro tín dụng
Nguồn: Tổng hợp dựa trên khảo sát 10 NHTM, 3/2016
Kết quả khảo sát tháng 3/2016 chi tiết tại 10 NHTM được lựa chọn triển khai Basel II, phương pháp tính vốn của ngân hàng dùng phương pháp nào theo lộ trình yêu cầu của NHNN cho thấy như hình 3.6. Trong số các NHTM này thì 7/9 ngân hàng hiện đang tính toán yêu cầu vốn tối thiểu theo phương pháp tiêu chuẩn (SA) của Basel II, còn lại 2 ngân hàng mới ở giai đoạn chuẩn bị xây dựng và dự kiến áp dụng theo SA theo lộ trình triển khai yêu cầu của NHNN.
Đối với khảo sát của Ngân hàng BIDV [29], cho kết quả khoảng 85% ngân hàng đang áp dụng và nghiên cứu áp dụng phương pháp SA/IRB, một số ít các ngân hàng đang nghiên cứu mô hình AIRB, và có 2 ngân hàng hiện chưa triển khai xây dựng công cụ đo lường rủi ro tín dụng. Khảo sát của BIDV cũng chỉ ra hầu hết các NHTM đều đang chủ động nghiên cứu xây dựng mô hình ước tính tổn thất tín dụng (EL, UL) và các tham số rủi ro PD, LGD, EAD theo tiêu chuẩn Basel
II. Ngân hàng chưa thực hiện nghiên cứu PD và EL xuất phát từ năng lực tài chính còn hạn chế.
Như vậy, trước yêu cầu xây dựng mô hình định lượng rủi ro tín dụng, các NHTM đã có ý thức chuẩn bị cho quá trình triển khai Basel II bởi áp dụng
SA/IRB có liên quan đến cơ sở dữ liệu, hệ thống thông tin, phương pháp tính toán về cả số lượng, thời gian và chất lượng, từ đó năng lực các công cụ đo lường rủi ro tín dụng của các NHTM được hoàn thiện và nâng cao.
3.2.2. Năng lực tài chính (NLTC)
Thực tế các quy định theo thông lệ quốc tế và Basel II và kết quả khảo sát của KPMG 2013 [70], IBM [68], chỉ ra rằng Basel II không chỉ là tuân thủ, mà là thực hiện chuẩn mực tối thiểu đánh giá rủi ro ngân hàng phải đối mặt và để đảm bảo đủ vốn, tăng hiệu quả hoạt động. Cấu trúc tính toán vốn yêu cầu trong Basel II cũng chỉ ra rằng năng lực về vốn của các NHTM theo quy định của Basel, tỷ lệ vốn tối thiểu là 8% xác định theo công thức 2.2 và 2.3, phụ thuộc vào: (i) Tổng vốn bao gồm vốn cổ phần cơ bản, vốn bổ sung; (ii) Tỷ lệ của tài sản có điều chỉnh rủi ro RW trong đó chủ yếu là rủi ro hoạt động tín dụng.
Đánh giá năng lực về vốn của các NHTM Việt Nam trong Khung năng lực quản trị rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II:
Một là, phần lớn các ngân hàng có quy mô vốn nhỏ so với các ngân hàng trong khu vực (tử số trong công thức 2.4 thấp). Cho đến thời điểm 12/2014, xét về số vốn điều lệ trong số 36 ngân hàng hiện nay, có thể chia làm 3 nhóm. Nhóm 1 với 9 ngân hàng có vốn lớn hơn 10.000 tỷ đồng; nhóm 2 gồm 10 ngân hàng có vốn từ 5.000 –
10.000 tỷ đồng và nhóm 3 là còn lại với 17 ngân hàng có vốn điều lệ dưới 5.000 tỷ đồng. Vietinbank là ngân hàng dẫn đầu hệ thống về vốn điều lệ với 37.234 tỷ đồng, các ngân hàng ở vị trí tiếp theo là BIDV và Vietcombank thì đến nay, BIDV đã theo sau khá sát với 31.481 tỷ đồng, sau khi nhận sáp nhập với MHB.
Hai là, tỷ trọng tài sản có rủi ro tín dụng của các NHTM lại cao (mẫu số công thức 2.4). Tỷ trọng cao trước hết là do hệ số xếp hạng quốc gia của Việt Nam hiện là B+, nghĩa là việc đầu tư vào các tài sản rủi ro tại Việt Nam theo Basel II sẽ có tỷ trọng cao (trái phiếu chính phủ Việt Nam cũng bị tính hệ số rủi ro là 100%), điều này là không phù hợp và theo cách tính toán yêu cầu vốn của Basel II, các NHTM Việt Nam khó có thể đáp ứng.
Theo báo cáo của Ernst & Young [8], quyết định về lựa chọn số lượng các ngân hàng sẽ tiến hành triển khai thí điểm Basel II được cân nhắc dựa vào: (i) Quy mô của ngân hàng (phần trăm tổng tài sản ngân hàng trong tổng tài sản của toàn hệ thống); (ii) Mức độ phát triển của hệ thống quản trị rủi ro trong ngân hàng (iii) Khả
năng đầu tư cho hệ thống quản trị rủi ro trong khung thời gian xác định. Quá trình phân tích cho thấy nhóm 7 ngân hàng đứng đầu chiếm gần 70% tổng tài sản của hệ thống ngân hàng và chi phí ước tính triển khai riêng QTRRTD theo Basel II là khoảng 7,5 triệu đô la Mỹ (tương đương với 3.5% lợi nhuận sau thuế) cho mỗi NHTM Việt Nam với mức chi phí dưới 10% là mức chấp nhận được [70]. Tuy nhiên, sau khi cân nhắc hai yếu tố chính về quy mô và năng lực tài chính cũng như nhân sự của chính NHNN trong việc phê duyệt hồ sơ của các ngân hàng, danh sách cuối cùng được lựa chọn 10 NHTM là nhóm đầu tiên triển khai Basel II.
Theo khảo sát và tính toán của tác giả, hệ số an toàn vốn (CAR) của nhiều ngân hàng đang ở sát mức tối thiểu và có nguy cơ giảm 1-3% nếu các chuẩn mực Basel II được áp dụng. Khảo sát 10 NHTM chuẩn bị triển khai Basel II theo lộ trình thực hiện từ năm 2015 – 2018 của NHNN, thì có tới một nửa số ngân hàng đang thiếu vốn với tỷ lệ yêu cầu vốn CAR dưới mức tối thiểu quy định 9%, ngoại trừ BIDV, VCB và MBB là ba ngân hàng duy nhất trong trong hệ thống thực hiện phân loại nợ theo phương pháp định tính (Điều 7/Quyết định 493) - phương pháp được đánh giá là cẩn trọng hơn so với phương pháp định lượng (Điều 6/Quyết định 493).
Bảng 3.1: Tỷ lệ an toàn vốn của 10 NHTM áp dụng Basel II
CTG | BIDV | VCB | MB | SCB | ACB | TCB | VPB | VIB | MSB | |
Tỷ lệ nợ xấu/Tổng tài sản (2013) | 2,53 | 2,29 | 3,09 | 3,10 | 1,51 | 3,60 | 4,12 | 2,81 | 2,82 | 2,71 |
Tỷ lệ nợ nhóm 2-5/ Tổng tài sản (2013) | 3,31 | 7,98 | 10,71 | 6,84 | 1,88 | 6,91 | 8,47 | 7,51 | 4,58 | 3,98 |
Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng (2013) | 54,7 | 85,2 | 96,9 | 62,2 | 80,9 | 48,1 | 36,8 | 41,0 | 93,1 | 98,7 |
Tỷ lệ CAR (31/12/2013) | 13,17 | 10,23 | 13,13 | 11,00 | 10,22 | 14,70 | 14,03 | 12,50 | 18,0 | 10,56 |
Tỷ lệ CAR (31/12/2014) | 10,4 | 9,07 | 11,.61 | 10,07 | 9,87 | 14,1 | 15,65 | 11,4 | 17,7 | 15,7 |
Tỷ lệ CAR (31/12/2015) | 10,03 | 9,01 | 11,04 | 12,85 | n/a | 12,6 | 14,7 | 14,7 | 18 | 24,53 |
Có thể bạn quan tâm!
- Công Cụ Đánh Giá Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng
- Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Theo Khoản Cấp Tín Dụng (Kctd)
- Bài Học Kinh Nghiệm Tiệm Cận Các Thông Lệ Quốc Tế Và Chuẩn Mực Basel Ii Nhằm Nâng Cao Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Cho Các Ngân Hàng Thương Mại
- Những Điểm Mạnh Của Nhtm Trong Quá Trình Triển Khai Basel Ii
- Đánh Giá Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Vpbank Hiện Nay So Với Khung Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng
- Định Hướng Hoạt Động Tín Dụng Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam Trong Thời Gian Tới
Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo thường niên các NHTM
Nhìn chung, hệ số CAR qua từ năm 2013 đến 2015 có xu hướng giảm ở phần lớn các ngân hàng mặc dù hệ số CAR mà các ngân hàng ước tính vẫn cao hơn tỷ lệ CAR theo chuẩn mực Basel II. Tuy nhiên, các ngân hàng mới chỉ xem xét đến rủi ro
tín dụng, trong khi tỷ lệ này phải bao gồm cả rủi ro tác nghiệp và rủi ro thị trường (theo công thức 2.4). Ngoài ra, khi NHNN sửa đổi thông tư 36/2014/TT-NHNN theo hướng nâng cao tỷ lệ tỷ lệ rủi ro mới đối với cho vay bất động sản lên 250%, thì hệ số CAR có thể giảm thêm 0,5-0,7%. Basel II đưa ra các yêu cầu khắt khe về vốn, nhằm tạo động lực cho các ngân hàng áp lực tăng vốn, cải thiện CAR nâng cao chất lượng quản lý rủi ro, đưa các ứng dụng từ hệ thống quản lý rủi ro vào các hoạt động kinh doanh của ngân hàng để đảm bảo sự phát triển an toàn và lành mạnh.
Các ngân hàng nhận ra các lợi ích thương mại, kinh doanh khi thực hiện Basel II, cũng như các cơ hội tiếp cận vốn tiềm năng, nâng cao danh tiếng của ngân hàng, hệ thống xếp hạng đánh giá hiệu quả hơn, do đó, nâng cao năng lực tài chính kết hợp sự giám sát của NHNN, hiểu biết sâu sắc của tư vấn, sự sẵn sàng, chủ động của các ngân hàng giúp hệ thống NHTM Việt Nam vững mạnh.
3.2.3. Năng lực quản trị điều hành (QTDH)
3.2.3.1. Chiến lược và chính sách tín dụng
Hệ thống quy trình, quy định, chính sách QTRR được ban hành nhằm đảm bảo quá trình cấp tín dụng được thực hiện thống nhất từ Hội sở chính (HSC) đến chi nhánh, tạo cơ chế giám sát hiệu quả nhằm hạn chế, phòng ngừa rủi ro. Hệ thống văn bản, chính sách tín dụng chủ yếu gồm: chiến lược và chính sách QTRRTD, chính sách khách hàng, quy trình cấp tín dụng, phân quyền phán quyết tín dụng, các quy định hỗ trợ quá trình cấp tín dụng. Theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II thì các ngân hàng phải có chiến lược kinh doanh cụ thể, dài hạn, xây dựng được khẩu vị rủi ro riêng trong chính sách tín dụng.
Kết quả điều tra, khảo sát của Luận án cho thấy về cơ bản 6/9 (66%) NHTM được chọn đều có chiến lược và khẩu vị rủi ro được quy định chính thức và rà soát hàng năm, 2/9 Ngân hàng có quy định nhưng lại không rà soát hàng năm, và 1 ngân hàng không quy định nhưng có sự rà soát hàng năm (theo Hình 3.7).
Hình 3.7: Chiến lược tín dụng và khẩu vị rủi ro tín dụng tại các NHTM
Nguồn: Tổng hợp dựa trên khảo sát 10 NHTM, 3/2016
So sánh với khảo sát của Ngân hàng BIDV [29] cho kết quả hầu hết các ngân hàng được khảo sát đã xây dựng hệ thống thông tin hỗ trợ cho quy trình kiểm soát, quy trình tín dụng, chính sách phân loại nợ và trích lập dự phòng. Tỷ lệ ngân hàng đã ban hành chính sách QTRRTD khá cao (80%).
Như vậy, qua các khảo sát cho thấy các NHTM Việt Nam đã có những bước chuyển biến trong việc quy định các chiến lược tín dụng và kế hoạch kiểm tra rà soát. Tuy nhiên, việc hoạch định chiến lược còn khá đơn giản ở tất cả các NHTM và chưa theo quy chuẩn quốc tế. Chiến lược kinh doanh không bài bản, mang tính định tính theo kinh nghiệm mà không đánh giá mức độ rủi ro và khả năng quản trị tương xứng. Chiến lược chỉ mang nội dung định hướng phát triển chung chứ chưa đưa ra được một danh mục tín dụng kế hoạch nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tập trung. Mức độ tổn thất tín dụng thể hiện “khẩu vị rủi ro” của ngân hàng không được cụ thể hóa cho từng ngành, từng khu vực thị trường, từng sản phẩm tín dụng. Bên cạnh đó các quy chế, quy trình hoạt động tín dụng còn nhiều kẽ hở như tăng trưởng tín dụng nóng, nhân sự chưa phát triển tương xứng, cơ sở dữ liệu về phân tích, dự báo môi trường kinh doanh, đánh giá nguồn lực và xác định tầm nhìn trung, dài hạn còn thiếu nên các NHTM còn lúng túng trong việc hoạch định chiến lược dài hạn.
Trên cơ sở các quy định của pháp luật, các NHTM ban hành hệ thống văn bản quản trị theo điều kiện cụ thể của ngân hàng. Hệ thống văn bản nội bộ của các ngân hàng là nhiều và khá đầy đủ, (quy định cụ thể trong cẩm nang tín dụng của các NHTM [36],[40]). Dù tại mỗi NHTM các văn bản đều được căn cứ trên một khẩu vị rủi ro thống nhất, nhưng văn bản lại được soạn thảo bởi nhiều bộ
phận khác nhau (bộ phận chính sách QTRR ra văn bản, bộ phận phát triển sản phẩm cũng đưa ra văn bản riêng), quy định chồng chéo và không thống nhất; Số lượng văn bản quá nhiều, hay chỉnh sửa khiến người sử dụng không thể nắm hết để vận dụng; Nhiều văn bản và quy định được tham khảo (dịch nguyên bản) từ các chuẩn mực, quy định quốc tế sử dụng các ngôn ngữ văn bản không chuyên nghiệp và chưa sát với thực tế tại các NHTM Việt Nam.
3.2.3.2. Mô hình tổ chức quản trị rủi ro
Về mô hình tổ chức quản trị rủi ro, các NHTM Việt Nam đã tuân thủ về cơ cấu tổ chức, bộ máy điều hành theo quy định của Luật các TCTD nhằm hướng tới việc nâng cao trình độ quản trị ngân hàng. Nhóm 10 NHTM được chọn để triển khai Basel II vào cuối năm 2015 đều thuê các công ty tư vấn quốc tế Ernst&Young, Deloitte, Mckinsey, PwC nghiên cứu và tư vấn tái cấu trúc cho các NHTM (giai đoạn 2009 – 2011) xây dựng bộ máy QTRRTD. Thông lệ quốc tế quy định trách nhiệm cao nhất và cuối cùng đối với QTRR là HĐQT của ngân hàng. Số liệu tổng hợp khảo sát thực trạng quản lý RRTD theo thông lệ Basel của Ngân hàng BIDV thực hiện (2012 -2014) tại các 43 NHTM Việt Nam, chỉ ra 90% số các ngân hàng đã thành lập Ủy ban QLRR trực thuộc HĐQT, có 3% số ngân hàng có Ủy ban QLRR thuộc ban điều hành và 01 ngân hàng chưa thành lập Ủy ban QLRR và 89% số ngân hàng đã thành lập Hội đồng quản lý Tài sản nợ - có (ALCO). Một số chuyên gia, cán bộ quản lý cao cấp của ngân hàng Sacombank, VPBank nhận định thực trạng hoạt động của các bộ phận liên quan đến rủi ro như Ủy ban QTRR còn mờ nhạt chưa tương xứng với vai trò, tầm vóc yêu cầu. Tình trạng chồng chéo chức năng giữa HĐQT và BĐH khi HĐQT tham gia điều hành quá nhiều (đặc biệt đối với các khoản vay tín dụng có dư nợ lớn), khẩu vị rủi ro của ngân hàng dễ phụ thuộc vào khẩu vị rủi ro của cá nhân.
Đối với bộ phận quản lý rủi ro chuyên trách, các NHTM đã thành lập Phòng/Ban/Khối Quản lý rủi ro là bộ phận chuyên chịu trách nhiệm thực thi, áp dụng các quy định, biện pháp, công cụ QTRR. Mô hình QTRR 3 lớp phòng vệ với ưu điểm là tất cả các thành viên của hệ thống đều phải tham gia quá trình QTRR, tạo nên văn hóa ý thức và kiểm soát rủi ro trong từng nhân viên ngân hàng. Các kết quả khảo sát chỉ ra 70% các NHTM đã thành lập bộ phận QLRR chuyên trách (tín dụng, thị trường, hoạt động).
Đối với 10 NHTM triển khai Basel II vào cuối năm 2015 về mô hình tổ chức hoạt động hiện nay nhận định: có 3/9 NHTM còn một số phòng ban có chức năng hoạt