Đánh Giá Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng Tại Vpbank Hiện Nay So Với Khung Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Tín Dụng

Thứ hai, lựa chọn và thẩm định khách hàng theo đúng tiêu chí đánh giá, hạn chế tối đa các tiêu chí mang yếu tố định tính, tăng các tiêu chí định lượng

Thực tế, để phản ánh các đặc thù rủi ro riêng của từng ngành, các công ty xếp hạng tín dụng quốc tế như Moody‟s và S&P phải sử dụng các nhân tố rủi ro khác nhau. Tại các NHTM Việt Nam các tiêu chí đánh giá khách hàng còn nhiều hạn chế: (i) Chưa có hệ thống các tiêu chí đánh giá theo từng ngành khác nhau, nhất là tiêu chí tài chính không có sự khác biệt; (ii) Chưa phân chia bộ tiêu chí đánh giá riêng biệt theo quy mô các doanh nghiệp lớn, vừa, nhỏ; (iii) Chưa có bộ tiêu chí riêng biệt cho khách hàng mới/cũ (A-score/B-score) do hạn chế về dữ liệu đầu vào.

Hệ thống các tiêu chí đánh giá, tiền đề xây dựng hệ thống XHTD nội bộ tại các NHTM hầu hết được xây dựng theo phương pháp chuyên gia, việc lựa chọn, quyết định các yếu tố cơ bản (tiêu chí, trọng số rủi ro) phụ thuộc vào quan điểm chủ quan của người xây dựng, chưa theo thông lệ quốc tế xác định xác suất vỡ nợ (PD) dự báo theo mô hình thống kê định lượng.

Khâu thẩm định khách hàng thường được xem là quan trọng nhất, tuy nhiên, để có thể thẩm định có hiệu quả thì việc thu thập thông tin phải có chất lượng. Quy trình cấp tín dụng mới lại yêu cầu tách bạch chức năng bán hàng và chức năng thẩm định tín dụng, cán bộ thẩm định không tiếp xúc khách hàng (để đảm bảo tính khách quan) nên cần phải có đầy đủ các thông tin để có thể đưa ra các quyết định tín dụng đúng đắn và hợp lý.

Thứ ba, công tác kiểm tra, giám sát các khoản cấp tín dụng hiệu quả, liên tục nhằm phát hiện sớm các sai sót, dấu hiệu cảnh báo rủi ro sớm.

Công tác kiểm tra, giám sát khách hàng chỉ dừng lại ở việc kiểm tra tính mục đích của việc sử dụng tiền vay, chưa quan tâm đến hiệu quả sử dụng tiền vay. Ngoài ra, QTRRTD theo khoản cấp tín dụng còn gặp khó khăn từ môi trường thông tin, tính minh bạch, chính xác, rõ ràng các thông tin và độ tin cậy của các cơ quan cung cấp tại Việt Nam còn rất nhiều hạn chế. Mặc dù, trung tâm thông tin tín dụng (CIC) của NHNN đóng vai trò quan trọng trong cung cấp thông tin về khách hàng, thực hiện phân tích, xếp loại tín dụng doanh nghiệp, cung cấp các thông tin cảnh báo, nhưng các yêu cầu liên quan đến thông tin của các ngân hàng vẫn chưa được đáp ứng nhanh chóng và kịp thời, tình trạng thông tin bất cân xứng vẫn là tồn tại chưa thể khắc phục được trên thị trường tài chính Việt Nam.

Ngoài ra, quy trình kiểm tra, giám sát tại các NHTM Việt Nam chưa đảm bảo yếu tố độc lập, minh bạch, liên tục, phân định trách nhiệm rõ ràng trong việc kiểm tra và giám sát công tác cấp và quản trị rủi ro cho các khoản tín dụng. Các công cụ kiểm tra sức chịu đựng như: kiểm nghiệm giả thuyết (Back Testing) và kiểm chứng kịch bản xấu (Stress testing) chỉ có khoảng 10% ngân hàng đang nghiên cứu áp dụng.

Như vậy, đánh giá năng lực QTRRTD theo từng khoản cấp tín dụng theo 3 tiêu chí trên cho thấy, các NHTM Việt Nam dù đã có một số đặc điểm đáp ứng với các quy định và thông lệ quốc tế nhưng khoảng cách khác biệt còn tương đối lớn do các yếu tố liên quan đến định lượng đo lường, cơ sở dữ liệu, khuôn khổ pháp lý chính thức cho hoạt động QTRRTD đối với từng khoản tín dụng vẫn chưa hoàn thiện hoàn toàn. Điều này không chỉ ảnh hưởng đến năng lực QTRRTD từng khoản tín dụng mà còn có tác động trực tiếp đến năng lực QTRR theo danh mục tín dụng.

3.2.9. Nghiên cứu trường hợp ngân hàng VPBank

3.2.9.1. Lý do lựa chọn nghiên cứu VPBank

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 129 trang tài liệu này.

Tác giả nghiên cứu trường hợp VPBank để minh họa và làm rõ quy trình phân tích, đánh giá chênh lệch về năng lực QTRRTD tại VPBank so với thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II. Tác giả chỉ dùng VPBank như một trường hợp cụ thể, chứ không sử dụng VPBank làm mẫu chuẩn cho 10 NHTM triển khai Basel II vì kết quả khảo sát đánh giá của các NHTM khác nhau là không giống nhau, không sử dụng NHTM này để đánh giá NHTM khác.

Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng – VPBank, với kinh nghiệm hoạt động trên 20 năm, là một trong những ngân hàng trẻ, năng động hàng đầu Việt Nam. có quy mô tài sản tốt, quy mô hoạt động và chất lượng QTRRTD ở mức trung bình trong trong nhóm các NHTM, nền tảng khách hàng bán lẻ lớn. Ngoài ra, VPBank thuộc trong nhóm 10 NHTM đáp ứng các tiêu chí của NHNN có khoảng chênh lệch về QTRRTD so với chuẩn mực Basel II hiện nay tương tự như phần lớn các NHTM Việt Nam. VPBank thành lập và triển khai Dự án tiền đề Basel từ năm 2012, thực hiện bởi nguồn lực nội bộ ngân hàng, rà soát, chuẩn đoán và lập kế hoạch rủi ro tổng thể, kế hoạch Basel II, trong đó có QTRRTD với những phát hiện về thách thức và mục tiêu đề xuất tương đối cụ thể như công cụ phân tích rủi ro, kỷ luật giám sát, hệ thống xếp hạng, nhân tố liên quan đến TSĐB. [Phụ lục 3.5: Những phát hiện rủi ro tín dụng nổi bật VPBank]. Nhóm tư vấn phối hợp với nội bộ

Nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng theo thông lệ quốc tế tại ngân hàng thương mại Việt Nam - 10

VPBank đã xây dựng một bảng các tiêu chí QTRRTD của Basel II, chi tiết từng phần và khoản mục sau đó so sánh với thực trạng hiện tại của ngân hàng. VPBank thực hiện đánh giá định tính (chênh lệch so với các yêu cầu của Basel II) và định lượng (chênh lệch về dữ liệu) nhằm xác định khoảng cách chi tiết từng loại rủi ro và theo từng Trụ cột so với yêu cầu của Basel II. Để thực hiện việc đánh giá này, ngân hàng sử dụng các công cụ chuẩn đoán, theo đó từng yêu cầu của Basel II được đối chiếu với thực trạng hoạt động của ngân hàng trên các vấn đề sau: (1) Quản trị; (2) Chính sách quy trình; (3) Cơ chế báo cáo; (4) Dữ liệu; (5) Hạ tầng công nghệ; và (6) Kiểm soát, kiểm toán nội bộ. [Phụ lục 3.4: Tóm tắt yêu cầu và cách thức thực hiện các yêu cầu của NHNN].

Phương pháp tiến hành: Thực hiện đánh giá định tính (chênh lệch so với các chuẩn mực Basel II) và định lượng (chênh lệch về dữ liệu) nhằm xác định các khoảng cách chi tiết theo từng loại rủi ro, theo từng Trụ cột so với các chuẩn mực Basel II. Để thực hiện đánh giá này, ngân hàng sử dụng các công cụ chuẩn đoán (do công ty tư vấn thiết kế và được NHNN thông qua) theo đó từng yêu cầu của Basel II được đối chiếu với thực trạng hoạt động của ngân hàng dựa trên các vấn đề sau: (i) Quản trị; (ii) Chính sách quy trình; (iii) Cơ chế báo cáo; (iv) Dữ liệu; (v) Hạ tầng công nghệ; và (vi) Kiểm toán nội bộ.

Đối với mỗi trụ cột của Basel II và theo yêu cầu tính vốn, đo lường từng loại rủi ro, ngân hàng cùng đơn vị tư vấn rà soát, đối chiếu từng yêu cầu của Basel II để xác định các chênh lệch. Các chênh lệch này được phân chia theo các mức độ: (1) Không quan trọng; (2) Quan trọng nhưng có thể thực hiện/tuân thủ sau; (3) Quan trọng và không thể trì hoãn được; (4) Rất quan trọng nhưng có thể thực hiện sau; (5) Rất quan trọng và không thể trì hoãn được. Đồng thời, đối với các chênh lệch đã được nhận dạng, dựa trên thực trạng của ngân hàng, xác định nỗ lực/nguồn lực cần có để khắc phục. Các nỗ lực được chia là 3 mức: Thấp, Trung bình, Cao. Việc đánh giá được thực hiện theo 5 giai đoạn [Phụ lục 3.6: Các giai đoạn đánh giá tại VPBank so với chuẩn mực Basel II], kết thúc 5 giai đoạn đánh giá thực trạng chênh lệch QTRRTD so với chuẩn mực Basel II tại VPBank, xây dựng kế hoạch tổng thể Basel II, các giải pháp cần thực hiện để ngân hàng sẵn sàng triển khai Basel II.

3.3.9.2. Đánh giá năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại VPBank hiện nay so với khung năng lực quản trị rủi ro tín dụng

VPBank đang theo chuẩn Basel I, các quy định do NHNN đặt ra cho các NHTM chưa hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của Basel II, tuân theo các quy định này là một trong những nguyên nhân dẫn đến VPBank có sự lệnh chuẩn tương đối lớn trong QTRRTD so sánh với các quy định tại Basel II. Tổng hợp từ các báo cáo phân tích [5, 47, 48, 65] đánh giá năng lực QTRRTD tại VPBank hiện nay như sau:

Năng lực xây dựng và vận hành các công cụ đo lường rủi ro tín dụng (CCDL)

Kết quả khảo sát, phân tích [37], VPBank đã có chính sách xếp hạng ban đầu xác định vai trò, trách nhiệm, phạm vi, tần xuất và thủ tục. Tuy ngân hàng chưa thực hiện thu thập dữ liệu đánh giá đầy đủ, chính xác và nhập dữ liệu vào hệ thống XHTD nội bộ nhưng đã có quy trình xếp hạng, phê duyệt khách quan, độc lập và thận trọng.

VPBank đang áp dụng 8 bộ chấm điểm cho danh mục bán lẻ, bộ phận phê duyệt tập trung tại ngân hàng được xây dựng từ năm 2011 và triển khai toàn hệ thống năm 2013. Đối với khách hàng doanh nghiệp, ngân hàng thực hiện đánh giá xếp hạng hàng năm, xây dựng mô hình hóa độc lập chịu trách nhiệm thiết kế hoặc chọn lọc, thực hiện và thi hành hệ thống XHTD nội bộ tại khối quản trị rủi ro.

Về phương pháp và các công cụ đo lường rủi ro tín dụng: VPBank mặc dù đã có hệ thống thu hồi nợ (Collection), hệ thống quản lý khoản vay (LOS), kế hoạch xây dựng hệ thống cảnh báo sớm (EWS) nhưng chưa chuẩn bị xây dựng các phương thức kiểm định mô hình định lượng, các công cụ đo lường QTRRTD như Var, UL, EL. VPBank có mức chênh lệch lớn so với các chuẩn mực trong Basel II, cụ thể: (i) Ngân hàng chưa xây dựng các mô hình về PD, LGD, EAD cho nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp siêu nhỏ, một số nhóm khách hàng cá nhân, khách hàng tài chính tiêu dùng cũng chưa sử dụng phuowg pháp tuân thủ theo Basel II; (ii) Chưa có hệ thống xếp hạng nội bộ IRB, hiện tại chỉ sử dụng công cụ đánh giá rủi ro do ngân hàng xây dựng (RRT); (iii) Ngân hàng mới bắt đầu đưa ra thông tin cần thiết cho việc sử dụng bảng điểm, nhưng chưa phải là dữ liệu thô; (iv) Chất lượng dữ liệu chưa tốt, hệ thống hạn mức lưu trữ trên T24 của các tiểu hạn mức chưa đồng bộ với hạn mức tổng

Năng lực tài chính (NLTC)

Theo báo cáo tài chính, VPBank hiện trong nhóm 10 NHTM có tổng tài sản (179,000 tỷ ) và vốn điều lệ lớn (trên 8,000 tỷ) có thể đáp ứng yêu cầu về vốn khi

triển khai các chuẩn mực Basel II. Ngân hàng dự kiến bỏ chi phí triển khai theo Basel II vào khoảng 6 - 7 triệu đô la Mỹ. Trong đó chi phí triển khai Basel II ban đầu vào QTRRTD vào khoảng 20,000 đô la Mỹ, các chi phí này bao gồm chi phí xây dựng các mô hình XHTD, hệ thống xếp hạng trọng số rủi ro RWA, ICAAP, tăng cường chức năng kiểm toán nội bộ.

Do hiện nay NHNN chưa chính thức yêu cầu các NHTM Việt Nam tuân thủ các yêu cầu Basel II nên có nhiều yêu cầu của kỷ luật thị trường (Trụ cột 3) về công bố thông tin chưa được thực thi. VPBank chưa thực hiện phương pháp IRB nên chưa công bố được hệ số yêu cầu vốn tối thiểu CAR theo IRB, hệ số CAR cho rủi ro tín dụng theo đó cũng chưa được xây dựng.

Khảo sát số liệu của tác giả vào tháng 9/2016 về hệ số CAR, theo thông tư 36 thì CAR của VPBank là 11.97, nhưng tính toán theo các chuẩn mực Basel II thì CAR chỉ vào khoảng 7.7, thấp hơn so với quy định (8%) . VPBank mặc dù đã có sự chuẩn bị chi phí cho quá trình triển khai Basel II nhưng cần nâng cao năng lực về tài chính để tăng khả năng ứng phó khi có rủi ro xảy ra, từ đó nâng cao năng lực QTRRTD của ngân hàng.

Năng lực quản trị điều hành (QTDH)

VPBank vẫn theo chuẩn mực Basel II, nên mô hình QTRRTD hầu hết chưa đáp ứng được các chuẩn mực Basel II. Trong mô hình QTRR hiện tại [phụ lục 3.6b], QTRRTD được chia thành các bộ phận chuyên trách cụ thể: xây dựng chính sách, giám sát tín dụng, tái cấu trúc nợ và phân tích mô hình rủi ro. Trong mô hình QTRRTD cho thấy: (i) Vai trò, trách nhiệm của Hội đồng quản trị (HĐQT), quản lý cấp cao, bộ phận quản lý rủi ro tín dụng và bộ phận kiểm toán nội bộ tương ứng theo Basel II chưa đáp ứng yêu cầu; (ii) Tần suất báo cáo chưa đáp ứng yêu cầu, các báo cáo thường xuyên không có kết quả kiểm định, thay đổi về vốn và các kết quả kiểm toán nội bộ; (iii) Kiểm tra sức chịu đựng (stress test) phải được thông qua HĐQT chứ không phải ban điều hành như hiện nay.

Quy định nội bộ và mức độ ứng dụng: Ngân hàng đã xây dựng được khẩu vị rủi ro và chiến lược rủi ro. Tuy nhiên, các quy trình xếp hạng, hoạt động xếp hạng, chính sách quản lý, các hệ thống báo cáo, VPBank có quy định từng nội dung này nhưng chưa bám sát các chuẩn mực trong Basel II. Ngoài ra, các hạn mức cho khách hàng chưa được xây dựng, các ứng dụng nâng cao trong QTRRTD về mô hình kinh

tế và các dữ liệu đầu vào, dự phòng tổn thất, thu nhập trên vốn điều chỉnh theo rủi ro (RAROC) và đánh giá hiệu quả hoạt động đều chưa có tại VPBank.

Năng lực nguồn nhân lực (NLNL)

Mô hình QTRRTD hiện tại của VPBank đã có sự phân chia thành từng bộ phận chuyên trách cụ thể, tương ứng với sự bố trí nhân sự phù hợp. Khối Quản trị rủi ro trước đây trực thuộc Khối tín dụng (2011) với nhân sự chưa đến 10 người, thì tại thời điểm tác giả khảo sát 3/2016, số lượng quản lý, chuyên viên cao cấp, nhân viên của bộ phận QTRRTD trên 500 nhân viên (bao gồm đội ngũ 350 cán bộ thu hồi nợ trực thuộc khối). Giám đốc khối QTRR là chuyên gia quản trị rủi ro nước ngoài, cùng đội ngũ cán bộ quản lý, chuyên viên cao cấp cho thấy số lượng và chất lượng nhân sự trong hoạt động QTRRTD tại VPBank đang dần được nâng cao.

Tuy nhiên, do ngân hàng vẫn vận hành theo Basel I, nên tư duy, nhận thức về Basel II của đội ngũ nhân lực vẫn còn nhiều hạn chế, các chính sách, quy định chưa thực sự theo Basel II nên chưa thể hình thành văn hóa rủi ro đáp ứng các chuẩn mực. Ngoài ra, ngân hàng cũng chưa xây dựng được các tiêu chí đánh giá năng lực cán bộ trong hoạt động QTRRTD.

Năng lực cơ sở hạ tầng tin học (HTTH)

Cơ sở hạ tầng tin học tại VPBank còn chênh lệch nhiều so với chuẩn mực Basel II, theo tính toán của công ty tư vấn [53], tỷ lệ chênh lệch là 95%, xuất phát từ nguyên nhân kho dữ liệu (data warehouse), kho dữ liệu cục bộ (data mart), hệ thống quản lý dữ liệu không đầy đủ. Ngân hàng có dữ liệu bên vay và dữ liệu khoản vay cho phi bán lẻ, chưa thể thực hiện phương pháp IRB. Các dữ liệu thu thập được chủ yếu để xếp hạng khách hàng, xếp hạng khoản cấp tín dụng, thu thập dữ liệu thu hồi nợ, các thông tin nợ lịch sử, tính toán vốn chưa đo lường theo chuẩn mực Basel II.

Nền hạ tầng công nghệ thông tin hiện nay (T24 và RRT) chưa đủ cung cấp kho dữ liệu. Hệ thống khởi tạo khoản cấp tín dụng (LOS) tại trung tâm phê duyệt tín dụng tập trung CPC chưa hoàn thiện, hệ thống quản lý TSĐB đang trong quá trình xây dựng.

Năng lực bộ máy kiểm toán nội bộ (KTNB)

Đánh giá khoảng cách giữa thực tế tại VPBank về quy trình giám sát (trụ cột 2 trong Basel II) cũng tương đối lớn cũng do một phần bản thân NHNN chưa có những quy định đầy đủ về thực hiện quy trình giám sát. VPBank đã có bộ máy kiểm toán nội bộ nhưng năng lực hoạt động còn khoảng cách xa với với các chuẩn mực Basel II.

Bộ máy kiểm toán nội bộ hoạt động theo quy định 44, đã thực hiện việc đánh giá một số mô hình được sử dụng trong quy trình phê duyệt tín dụng nhưng cần cải thiện để tăng chất lượng đánh giá. VPBank chưa thực hiện kiểm định độc lập cho các mô hình và văn bản hóa chưa thực sự đáp ứng các yêu cầu. Bộ máy kiểm toán nội bộ của VPBank hoạt động còn chồng chéo chức năng, nhiệm vụ.

Để nâng cao năng lực kiểm tra, giám sát nội bộ cho bộ máy kiểm toán nội bộ, ngân hàng cần thiết lập chính sách để ghi nhận các kết quả xếp hạng tín nhiệm độc lập, gồm: các xếp hạng được chấp nhận, nhất quán trong việc sử dụng xếp hạng độc lập, phương pháp xử lý cho các trường hợp ngoại lệ. Chưa xây dựng kế hoạch và quản lý hoạt động liên quan đến yêu cầu công báo thông tin định lượng và định tính theo trụ cột 3 của chuẩn mực Basel II.

Năng lực quản trị rủi ro tín dụng theo danh mục tín dụng (DMTD)

VPBank chưa có bộ phận quản lý danh mục tín dụng với chức năng quản lý danh mục phạm vi toàn hàng, chưa phân định nhiệm vụ giữa mô hình đo lường và quản lý. Khi chức năng quản lý danh mục tín dụng phát triển hơn, để đáp ứng theo các chuẩn mực Basel II và thông lệ quốc tế, ngân hàng phải tách biệt nhiệm vụ giữa chức năng quản lý và đo lường.

VPBank đã xây dựng danh mục tín dụng theo kế hoạch kinh doanh hàng năm, tuy nhiên, việc xây dựng này chưa hoàn toàn theo phương thức chủ động, vẫn còn tập trung tại một số lĩnh vực chính.

Các mô hình kiểm tra sức chịu đụng bằng các tình huống kinh tế giả định để điều chỉnh danh mục tín dụng, mô hình đo lường rủi ro danh mục tín dụng, các công cụ điều chỉnh danh mục tín dụng, VPBank đang trong quá trình xây dựng.

Năng lực quản trị rủi ro tín dụng theo khoản cấp tín dụng (KCTD)

Ngân hàng bám sát các quy định do NHNN đặt ra như lập dự phòng và đưa ra quyết định trích lập dự phòng cho TSĐB theo quy định của NHNN; Ngân hàng chấp nhận vài tài sản thế chấp có trong Basel II, có quy trình, chính sách đánh giá theo đúng luật lệ nhằm đảm bảo việc thực thi pháp luật và thanh lý kịp thời đối với việc thu hồi nợ; (iii) Ngân hàng có định nghĩa rõ ràng về danh mục bán lẻ và cho vay thế chấp nhà.

Việc đánh giá, phê duyệt các khoản vay hoàn toàn độc lập với bộ phận kinh doanh chi nhánh nhưng chưa xây dựng được hệ thống thông tin định lượng về rủi ro tín

dụng theo khoản cấp tín dụng. Do đó, năng lực về QTRR theo các khoản cấp tín dụng nhìn chung chưa đáp ứng các chuẩn mực Basel II

Để tăng tính hiệu quả khi ứng dụng Basel II, các thay đổi quan trọng nhằm đảm bảo hoạt động QTRRTD tại VPBank theo khung năng lực QTRRTD đáp ứng đúng yêu cầu Basel II:

Một là, mô hình QTRRTD: Vai trò của HĐQT, BĐH, các cấu phần của Khung quản trị rủi ro, chính sách rủi ro đều chịu ảnh hưởng nhiều từ việc áp dụng Basel II; VPBank chưa có bộ phận quản lý danh mục với chức năng quản lý danh mục ở phạm vi toàn hàng. Phân định nhiệm vụ giữa mô hình đo lường và quản lý. Khi chức năng quản lý danh mục phát triển hơn, ngân hàng cân nhắc tách biệt nhiệm vụ giữa quản lý và đo lường;

Hai là, phát triển và hoàn thiện các công cụ đo lường, giảm thiểu rủi ro tín dụng: Tính toán vốn theo luật định (tính toán RWA và các phương pháp tiếp cận); Tính toán vốn kinh tế; Quản lý và phân bổ vốn; Stress test cho vốn, xây dựng mô hình nội bộ, kiểm nghiệm;

Ba là, lập kế hoạch và quản lý hoạt động bao gồm: Báo cáo luật định công bố thông tin định lượng và định tính theo trụ cột 3.

Bốn là, xây dựng và nâng cấp cơ sở dữ liệu cũng như hạ tầng CNTT trên nền tảng hiện tại (T24, RRT) của VPBank, chuẩn bị kho dữ liệu đáp ứng các yêu cầu của Basel II. Kiểm định mô hình AR (Accuracy Ratio) [50] dự đoán với hai mô hình tại hai mức AR = 30% và AR = 50% thì khả năng có thể giảm khoảng 19% tổn thất trong danh mục. Có thể thấy xét về vốn ngân hàng sẽ tiết kiệm được tạo động lực cho các ngân hàng với mức CAR thấp hơn, đồng thời ngân hàng sẽ nâng cao năng lực QTRRTD.

3.3. Kết luận chung về thực trạng năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Từ các giả thuyết nghiên cứu, qua phân tích kết quả khảo sát (3/2016) mức độ sẵn sàng, thực trạng triển khai chuẩn mực Basel II theo lộ trình nâng cao năng lực QTRRTD tại các NHTM Việt Nam, nguồn khảo sát (2012) và đánh giá tại VPBank cho thấy 8 nhân tố năng lực trong Khung năng lực QTRRTD theo thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II có tác động đến năng lực QTRRTD tại các NHTM Việt Nam. Đánh giá chung thực trạng năng lực QTRRTD tại các NHTM Việt Nam:

Thứ nhất, năng lực xây dựng và vận hành công cụ đo lường rủi ro tín dụng (CCDL)

Phần lớn các NHTM đã chủ động nghiên cứu triển khai hệ thống XHTD nội bộ theo các tiêu chí của thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II. Việc xếp hạng tín dụng tại các NHTM đã tính đến cả yếu tố định tính và định lượng;

- Nguồn dữ liệu và cách đo lường các biến sử dụng trong hệ thống xếp hạng rủi ro tín dụng đã có sự chuẩn bị về số lượng;

- Các NHTM đã triển khai xây dựng một số công cụ đo lường QTRRTD như hệ thống LOS, quản lý TSĐB, PD;

- Cơ sở dữ liệu thiếu: Các NHTM mặc dù có sự chuẩn bị về cơ sở dữ liệu nhưng chưa đủ lớn theo chuỗi thời gian liên tục (7 năm);

- Khả năng lượng hóa của Hệ thống XHTD nội bộ còn thấp ;

- Quy trình kiểm tra và giám sát hệ thống XHTD chưa có tính chuẩn mực.

Thứ hai, năng lực tài chính (NLTC)

- Năng lực về vốn và tài chính của các ngân hàng thấp so với mặt bằng vốn các ngân hàng khác trong khu vực, gây khó khăn trong quá trình ứng dụng khung năng lực QTRRTD theo thông lệ và chuẩn mực Basel II;

- Tuy nhiên, Basel II quy định hệ số CAR, các NHTM Việt Nam mới chỉ tập trung cho rủi ro tín dụng, chưa tính toán được mức vốn tự có tối thiểu để bù đắp mức độ rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động.

Thứ ba, năng lực quản trị điều hành (QTDH)

- Hệ thống NHTM Việt Nam đã có khung pháp lý ban đầu, thiết lập được khẩu vị rủi ro tín dụng riêng cho từng ngân hàng; Một số NHTM chủ động ban hành cơ chế, chính sách, quy trình QTRRTD theo thông lệ quốc tế;

- Mô hình QTRRTD đã hướng dần tới thông lệ quốc tế (mô hình tập trung hóa, mô hình tổ chức áp dụng cả ngang và dọc);

- Do hệ thống pháp lý còn thiếu và yếu, chưa cập nhật các chuẩn mực Basel II nên tại chiến lược, chính sách, quy trình QTRR tại các NHTM còn chưa đầy đủ.

Thứ tư, năng lực nguồn nhân lực (NLNL)

- Các NHTM đã thuê chuyên gia tư vấn cao cấp nhằm xây dựng các mô hình lượng hóa rủi ro tín dụng, năng lực nguồn nhân lực được nâng cao, am hiểu về thực trạng QTRRTD, hiểu thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II;

- Nguồn nhân lực chất lượng cao của NHTM Việt Nam còn thiếu, chưa cập nhật với kiến thức hiện đại về QTRRTD ngân hàng. Năng lực nhân lực chưa thể đáp ứng được việc xây dựng và phát triển hệ thống mô hình tiên tiến, phức tạp.

Thứ năm, năng lực cơ sở hạ tầng tin học (HTTH)

- Các NHTM bắt đầu chú trọng đầu tư công nghệ hỗ trợ QTRRTD;

- Cơ sở hạ tầng HTTH tại hầu hết các NHTM chưa đồng bộ, chưa khai thác được nhiều. Một số phần mềm ngân hàng mang tính riêng lẻ, thuần túy nhằm chấm điểm, xếp hạng khách hàng, chưa được tích hợp;

- Chức năng của hệ thống phần mềm còn hạn chế: việc ứng dụng các mô hình/công cụ định lượng còn sơ khai, chưa đủ dữ liệu để kiểm định kết quả đầu ra ảnh hưởng đến năng lực QTRRTD theo thông lệ quốc tế và các khuyến nghị của Basel II. Thứ sáu, năng lực bộ máy kiểm toán nội bộ (KTNB)

- Các NHTM đã thành lập bộ phận KTNB trực thuộc Ban kiểm soát có chức năng độc lập, giám sát, đánh giá sự tuân thủ với các chính sách và quy trình QTRR trong ngân hàng;

- Hoạt động KTNB của các NHTM thường chú trọng vào rủi ro tín dụng và chưa thực sự phát huy đối với các rủi ro trọng yếu khác;

- KTNB chỉ được thực hiện định kỳ, do đó thường đi sau và chưa phát hiện kịp thời các vấn đề trong công tác QTRR của ngân hàng

Thứ bảy, năng lực quản trị rủi ro tín dụng theo danh mục tín dụng (DMTD)

- Năng lực QTRRTD theo DMTD không cao, hoạt động quản trị rủi ro theo từng khoản tín dụng và theo danh mục tín dụng chưa hợp lý, mức độ đa dạng hóa danh mục tín dụng không cao;

- Các nhà quản trị ngân hàng chưa nhận thức đầy đủ về QTRRTD theo danh mục tín dụng, ngân hàng có xu hướng chạy theo lợi nhuận nên ảnh hưởng đến công tác QTRR theo danh mục tín dụng;

- Hoạt động kiểm toán nội bộ thiếu hiệu quả chưa hỗ trợ đúng mức cho công tác giám sát danh mục tín dụng.

Tám là, năng lực quản trị rủi ro tín dụng theo khoản cấp tín dụng (KCTD)

- Phương pháp phân tích đánh giá tín dụng đã gần với các thông lệ, nhiều công cụ đã được thiết lập và triển khai;

- Năng lực QTRR theo khoản cấp tín dụng còn phụ thuộc nhiều vào các kỹ thuật giảm thiểu và ngăn ngừa rủi ro tín dụng;

3.4. Nguyên nhân của thực trạng năng lực quản trị rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam

Qua phân tích, đánh giá các kết quả khảo sát, phỏng vấn chuyên gia và một số nhận định riêng của tác giả về thực trạng 8 nhân tố năng lực trong khung năng lực QTRRTD tại các NHTM Việt Nam, đặc biệt là nhóm 10 NHTM lựa chọn của Luận án, nguyên nhân của thực trạng năng lực QTRRTD chủ yếu như sau:

Thứ nhất, Việt Nam có nền kinh tế dựa vào ngân hàng, nhưng ngân hàng Việt Nam lại có xuất phát điểm thấp so với các ngân hàng thế giới. Hệ thống tài chính phát triển ở trình độ thấp, các sản phẩm tương đối đơn giản, vẫn tập trung chủ yếu vào hoạt động tín dụng, chưa có các sản phẩm hiện đại như sản phẩm phái sinh, hợp đồng hóa đổi tổn thất tín dụng. Ngoài ra, hệ thống văn bản pháp luật về quản lý rủi ro tín dụng còn nhiều bất cập, thiếu thống nhất, chồng chéo và có khoảng cách xa so với chuẩn mực quốc tế;

Thứ hai, quy mô vốn và tài sản của các NHTM Việt Nam còn rất nhỏ so với các ngân hàng lớn trên thế giới và khu vực. Hiệu quả hoạt động nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng đều hạn chế, tốc độ tăng trưởng tín dụng nhanh nhưng không hiệu quả, nợ xấu gia tăng tác động đến thanh khoản và chất lượng tài sản có của ngân hàng. Mặc dù, theo cách tính toán hiện tại, các chỉ tiêu theo thông lệ quốc tế như CAR, thanh khoản, an toàn đều đạt nhưng nếu tính toán theo đúng chuẩn mực quốc tế thì các chỉ tiêu này của các NHTM Việt Nam đều thấp đi đáng kể.

Thứ ba, nền tảng công nghệ thông tin, hệ thống thông tin khách hàng, cơ sở dữ liệu không đồng bộ, thiếu và chưa thể đáp ứng việc xây dựng các công cụ/mô hình lượng hóa rủi ro tín dụng. Đây là những rào cản lớn, hạn chế cho các nhà quản trị ngân hàng trong quá trình cải thiện, nâng cao năng lực QTRRTD thông qua các mô hình định lượng đáp ứng thông lệ quốc tế và chuẩn mực Basel II.

Thứ tư, nguồn nhân lực chất lượng cao, am hiểu thực trạng QTRRTD tại Việt Nam, hiểu về các thông lệ QTRRTD như Basel II, Basel III, đặc biệt có kiến thức tốt về mô hình toán định lượng. Nguồn nhân lực này các NHTM Việt Nam vẫn đang thuê chuyên gia tư vấn chuyên nghiệp, và mới bắt đầu giai đoạn xây dựng đội ngũ nhân lực đủ khả năng vận hành Khung năng lực QTRRTD.

Thứ năm, khả năng đầu tư tài chính, tư duy dám thay đổi, tự cải cách và tầm nhìn chiến lược nâng tầm vị thế cho hệ thống NHTM Việt Nam đều thiếu, yếu. Một số NHTM vẫn đặt mục tiêu tăng trưởng lợi nhuận, mở rộng khách hàng, chưa đặt trọng tâm vào công tác QTRR, nếu có chỉ mang tính chất hình thức, đối phó nhằm đạt chuẩn theo yêu cầu. Bên cạnh đó, khung pháp lý về hoạt động kinh doanh ngân hàng, văn bản hướng dẫn áp dụng các mô hình/công cụ QTRRTD theo thông lệ cho các NHTM chưa thống nhất, không đồng bộ với toàn bộ các thành phần kinh tế.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/04/2022