Đối Với Khách Hàng Của Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam


công chúng. Hình ảnh và thương hiệu của Agribank cần được đầu tư hơn nữa tại các địa phương nhằm khẳng định tên tuổi của ngân hàng, đồng thời, cạnh tranh được với các tổ chức tín dụng khác. Việc đẩy mạnh hoạt động quảng bá thương hiệu cần thực hiện đồng bộ và nhất quán và được lập kế hoạch cụ thể ở từng chi nhánh.

3.4. KIẾN NGHỊ

3.4.1. Đối với Chính phủ, các bộ, ngành liên quan

Thứ nhất, chú trọng ổn định môi trường kinh tế vĩ mô.

Môi trường kinh tế vĩ mô luôn là nhân tố có tính quyết định đến hoạt động kinh doanh và tác động trực tiếp đến vấn đề thanh khoản của mỗi ngân hàng. Trong điều kiện môi trường kinh tế vĩ mô bất ổn, chính sách điều hành kinh tế của chính phủ thiếu ổn định, thì hoạt động của tất cả các tổ chức kinh tế đều chưa đựng yếu tố rủi ro, đến lượt nó, lại tác động trực tiếp đến tính thanh khoản của NHTM. Do vậy, để hệ thống NHTM hoạt động an toàn và hiệu quả thì Chính phủ cần duy trì một môi trường kinh tế vĩ mô ổn định.

Để ổn định kinh tế vĩ mô trong điều kiện là một quốc gia nhỏ, Việt Nam cần tăng cường khả năng dự báo những biến động của nền kinh tế thế giới song song với việc thay đổi mô hình tăng trưởng, phát triển kinh tế theo hướng bền vững. Mô hình tăng trưởng kinh tế cần chú trọng tăng trưởng về chiều sâu hơn là chiều rộng, nói cách khác là, quan tâm vào chất lượng và sự bền vững của tăng trưởng kinh tế. Theo đó, cần xác định mức tăng trưởng kinh tế hợp lý có tính tới các biến động về môi trường, khí hậu và chính trị, đặc biệt trong bối cảnh quan hệ với Trung Quốc có nhiều diễn biến phức tạp. Ngoài ra, cần kiểm soát chặt chẽ, thay đổi cơ cấu xuất, nhập khẩu nhằm tận dụng lợi thế của Việt Nam, hạn chế tình trạng “nhập khẩu lạm phát” khi giá cả trên thế giới biến động.

Thứ hai, hoàn thiện hành lang pháp lý trong hệ thống ngân hàng.

Môi trường pháp lý luôn là nhân tố quan trọng đối với hệ thống NHTM và có tác động mạnh đến thanh khoản của NHTM. Những năm qua, hệ thống các văn bản pháp luật liên quan đến hệ thống ngân hàng đã được cải thiện về căn bản. Tuy vậy, nhìn một cách tổng thể thì hệ thống pháp lý vẫn còn có sự bất cập nhất định, thể


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.

hiện ở sự bất cập và có khoảng cách khá xa so với thông lệ quốc tế (chẳng hạn như việc đánh giá RRTD chưa theo thông lệ…). Tính khả thi của một bộ phận không nhỏ các văn bản luật còn yếu, do việc ban hành các văn bản này chưa thực sự bám sát thực tiễn hoạt động kinh doanh, đồng thời cũng do hoạt động kiểm tra, kiểm soát việc thực thi chúng chưa được chú trọng đúng mức. Hơn nữa, còn thiếu sự phối kết hợp đồng bộ giữa các NHTM với các cơ quan thực thi pháp luật, dẫn tới quyền lợi của NHTM chưa được bảo vệ yếu tố rủi ro pháp lý còn cao…Do vậy, bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật thì cũng cần tăng cường tính khả thi của chúng, bảo đảm một sự lành mạnh trong môi trường kinh doanh ngân hàng. Trong thời gian tới, Chính phủ nên thực hiện các khuyến nghị sau:

Một là, giao Bộ Tài chính nghiên cứu cấp bổ sung vốn điều lệ cho Agribank nhằm bảo đảm duy trì hệ số CAR theo chuẩn quy định, tiến tới phải đáp ứng được yêu cầu về an toàn hoạt động theo thử nghiệm sức chịu đựng của ngân hàng. Nghiên cứu các giải pháp tháo gỡ những vướng mắc làm cản trở sự phát triển của thị trường tài chính nói chung, trong đó đặc biệt là sự hoạt động của thị trường chứng khoán.

Quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - 23

Hai là, giao Bảo hiểm Tiền gửi nghiên cứu chiến lược tăng cường năng lực tài chính để thực thi tốt chức trách là tổ chức bảo hiểm cho những người gửi tiền, qua đó tạo lập và duy trì nièm tin của những người gửi tiền tại các NHTM. Cơ chế hoạt động của tổ chức này cũng cần linh hoạt hơn trong việc đưa ra các mức phí bảo hiểm cũng như cơ chế bồi thường hợp lý căn cứ vào đòi hỏi của thị trường trong từng giai đoạn nhất định.

Ba là, giao NHNN Việt Nam nghiên cứu và ban hành Luật Tổ chức tín dụng mới phù hợp với bối cảnh hiện tại theo hướng nâng cao kỷ luật, kỷ cương của thị trường ngân hàng.

Thứ ba, phát triển thị trường tài chính.

Bên cạnh những ưu điểm khi phát triển thị trường tài chính như giúp nguồn vốn trong nền kinh tế được phân bổ hiệu quả, Việt Nam cần phát triển thị trường tài chính, đặc biệt là thị trường vốn, nhằm vừa giảm tải cho hệ thống ngân hàng vừa


giúp hệ thống ngân hàng có thể tiếp cận với nguồn thanh khoản từ các kênh khác bên cạnh chỉ phụ thuộc vào kênh liên ngân hàng. Hơn nữa, thị trường chứng khoán phát triển sẽ góp phần tăng mức độ vốn hóa của ngân hàng, giúp ngân hàng tăng vốn tự có nhằm đáp ứng nhu cầu mở rộng và phát triển trong tương lai. Một số khuyến nghị sau cần được triển khai nhằm có một thị trường tài chính thực sự phát triển một cách bền vững.

Một là, củng cố và hoàn thiện các thị trường bộ phận của thị trường tài chính theo thông lệ quốc tế và phù hợp với đặc điểm Việt Nam:

(i) Đối với thị trường tiền tệ: Cần phát triển thị trường tiền tệ an toàn, hiệu quả, đồng bộ và mang tính cạnh tranh cao nhằm tạo cơ sở quan trọng cho hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ, huy động và phân bố có hiệu quả các nguồn lực tài chính, giảm thiểu rủi ro cho các TCTD.

(ii) Đối với thị trường ngoại hối: Mở rộng hợp lý thành viên tham gia thị trường, cho phép và tạo hành lang pháp lý cho các giao dịch ngoại hối phái sinh; cải thiện và nâng cao công tác quản lý dự trữ ngoại hối của NHNN để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của thị trường.

(iii) Đối với thị trường vốn: Tiếp tục củng cố và phát triển thị trường vốn, hoàn thiện dần về cấu trúc, cải tiến phương thức vận hành. Phát triển thêm các kênh cung cấp vốn cho thị trường, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các dịch vụ, tạo điều kiện thu hút thêm các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư có tổ chức…Thực hiện có hiệu quả chức năng thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của các chủ thể tham gia thị trường.

Hai là, đối với các định chế tài chính. Các định chế tài chính cần nâng cao năng lực xác định, theo dõi, và quản lý có hiệu quả các rủi ro kinh doanh để đảm bảo hệ thống tài chính có thể thực hiện có hiệu quả chức năng trung gian tài chính và phân bổ tín dụng, đồng thời giảm thiểu nguy cơ giảm sút chất lượng các khoản cho vay. Ngoài ra, các định chế tài chính và các tổ chức thanh toán bù trừ cũng cần nâng cao năng lực cung cấp một hệ thống thanh toán hiệu quả và đáng tin cậy.


Ba là, hoàn thiện hệ thống pháp lý hiệu quả, có hiệu lực và tin cậy cho các thành viên thị trường hoạt động.

Thứ tư, đảm bảo hoạt động thu chi ngân sách hợp lý, đảm bảo mức an toàn nguồn trả nợ công và tránh rơi vào tình trạng bội chi ngân sách liên tục.

Bội chi liên tục trong thời gian dài sẽ dẫn tới lạm phát, gây ra bất ổn kinh tế vĩ mô, do đó, để quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng diễn ra thuận lợi, vấn đề NSNN cũng là một nhân tố quan trọng. Bên cạnh đó, với nguồn thu đang có xu hướng giảm do giá dầu thô biến động giảm, thuế giảm do hội nhập kinh tế và tổng cầu chưa thực sự hồi phục mạnh trong khi hoạt động chi ngân sách, đặc biệt là chi thường xuyên vẫn không giảm nhưng ngân sách cho hoạt động đem lại giá trị cao trong dài hạn như phát triển, khoa học - công nghệ lại bị cắt giảm. Do vậy, Chính phủ cần xem xét lại kỷ luật trong việc sử dụng ngân sách, thực hiện cải cách chế độ tiền lương theo nguyên tắc năng suất lao động. Tuy nhiên, để thay đổi được một cách mạnh mẽ vấn đề tái cấu trúc ngân sách nhà nước cần một thể chế mạnh và quyết tâm chính trị cao.

Thứ năm, nâng cao chất lượng và hiệu quả đầu tư công.

Chính phủ cần chỉ đạo các bộ ban ngành khẩn trương ban hành bộ khung chính sách cho vấn đề đầu tư công ở Việt Nam hiện nay sau khi Luật Đầu tư công 2014 đi vào thực tiễn ngày 01/01/2015. Đồng thời, Chính phủ cần tiếp tục hoàn thiện các luật có liên quan như là: luật quy hoạch, các vấn đề về sử dụng ngân sách nhà nước, phân bổ vốn đầu tư.

Bên cạnh đó, cần rà soát lại các kế hoạch đầu tư, xem xét cân nhắc giữa tình hình thực tế và kế hoạch phân bổ nguồn vốn ban đầu, do xuất phát từ tình hình thực tại rất nhiều dự án không kịp tiến độ với nguồn vốn giải ngân chậm, thấp. Để nâng cao hiệu quả đầu tư, phải có cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ các kế hoạch đầu tư, cân nhắc đầu tư trọng điểm tại các lĩnh vực như là giáo dục, khoa học công nghệ, tránh tình trạng đầu tư giàn trải. Cần tính toán kỹ lượng thận trọng, các hiệu quả kinh tế - xã hội do đầu tư công mang lại để đưa ra được quyết định đầu tư đúng đắn. Một ví dụ điển hình là trong lĩnh vực đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng giao thông.


Theo đó, cần ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông theo thứ tự ưu tiên lần lượt từ cao đến thấp là: đường biển, đường sắt, đường bộ. Trong quá trình triển khai dự án đầu tư, cần thực hiện nghiêm túc quy tắc “minh bạch hóa thông tin”, tăng cường kiểm tra giám sát đầu tư công và tạo ra nhiều kênh để có yếu tố thị trường tham gia giám sát.

3.4.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Thứ nhất, tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng.

Mặc dù hệ thống văn bản pháp luật về thanh tra giá sát hoạt động ngân hàng nói chung, trong đó đặc biệt là thanh tra giám sát thanh khoản, đã được NHNN chú ý triển khai, hiệu quả của hoạt động này chưa cao, chủ yếu mới chỉ chú ý thanh tra sự vụ, thanh tra theo định kỳ, thiếu hẳn hoạt động cảnh báo sớm. Để hoàn thiện hoạt động thanh tra giá sát, đóng góp vai trò quan trọng trong công tác quản lý thanh khoản của hệ thống NHTM thì hoạt động thanh tra cần có những cải thiện căn bản theo hướng sau:

Một là, chú ý tăng cường giám sát từ xa và giám sát vĩ mô đối với hệ thống NHTM, đặc biệt là các hoạt động của các tổ chức này trên thị trường tiền tệ. Kinh nghiệm các quốc gia phát triển sau khủng hoảng 2007-2009 như Mỹ cho thấy việc giám sát an toàn vĩ mô đóng vai trò rất quan trọng khi có thể tổng thể theo dõi xu hướng biến động của thị trường, từ đó phát hiện ra rủi ro kịp thời.

Hai là, xây dựng trung tâm cảnh báo sớm nhằm góp phần ngăn chặn, xử lý kịp thời những biến cố có thể tác động bất lợi đối với hệ thống ngân hàng. Trung tâm cảnh báo sớm này có thể xây dựng dựa trên nguồn nhân lực của các đơn vị như cơ quan thanh tra giám sát ngân hàng, cục bảo hiểm và ủy ban chứng khoán nhà nước. Bên cạnh đó, một số thành viên từ ủy ban giám sát tài chính quốc gia và vụ ổn định tài chính có thể tham gia dưới vai trò tư vấn.

Ba là, tăng cường sự hoạt động của Trung tâm Thông tin Tín dụng (CIC) và Bảo hiểm tiền gửi. Hệ thống này sẽ giúp giám sát trực tiếp hoạt động kinh doanh của các NHTM, từ đó, đưa ra những cảnh báo sớm cho các NHTM.


Thứ hai, củng cố, phát triển hoạt động của thị trường phái sinh.

Với sự biến động phức tạp của thị trường tài chính, thì bên cạnh việc củng cố và hoàn thiện công tác quản lý thanh khoản, cần đẩy mạnh sự hoạt đọng của thị trường các công cụ phái sinh. Điều này, qua đó, giúp các NHTM có các công cụ hữu hiệu trong quản lý rủi ro. Thị trường REPO là công cụ hữu hiệu trong việc tạo ra tính lỏng cao cho các chứng khoán nợ và cơ cấu tài sản Có nhằm hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM một cách nhanh chóng. Hợp đồng kỳ hạn (Forward) hay Hợp đồng tương lai (Future) cũng là những công cụ để “khóa” lãi suất giao dịch nhằm hạn chế rủi ro khi lãi suất thị trường biến động phức tạp. Đặc biệt, nghiệp vụ hoán đổi (Swap) là công cụ quan trọng để các NHTM có thể cơ cấu lại tài sản - Nợ một cách hiệu quả… Tuy vậy, các công cụ này tại Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn hình thành và hoạt động rất kém hiệu quả. Do vậy, NHNN cần đưa ra một hành lang pháp lý rõ ràng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động phái sinh tại Việt Nam phát triển, giúp các NHTM có các công cụ hiệu quả trong quản lý rủi ro nói chung, trong đó đặc biệt là RRTK.

3.4.3. Đối với khách hàng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam

RRTK trong NHTM có liên quan đến tất cả các hoạt động kinh doanh của ngân hàng và do vậy có quan hệ mật thiết với hành vi ứng xử của khách hàng, đặc biệt có liên quan đến việc chấp hành các nguyên tắc và điều kiện tín dụng. Một khi khách hàng không tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc và điều kiện tín dụng dẫn đến nợ xấu thì an toàn thanh khoản của ngân hàng sẽ bị đe dọa, do vậy, ngoài việc ngân hàng khi chi khách hàng vay phải tuân thủ chặt chẽ quy trình cho vay, thì đòi hỏi khách hàng cũng phải tuân thủ các điều khoản quy định trong các hợp đồng tín dụng, phải sử dụng vốn vay đúng mục đích, đúng đối tượng tín dụng, tuân thủ các quy định về báo cáo tình hình kinh doanh và tình hình tài chính theo định kỳ, tạo thuận lợi để ngân hàng có thể nắm bắt đầy đủ những diễn biến phát sinh trong quá trình kinh doanh và có các giải pháp ứng phó kịp thời, tránh tình trạng NHTM bị động. Có sự phối kết hợp chặt chẽ với cán bộ tín dụng trong xử lý các tình huống


phát sinh có liên quan đến xử lý vốn vay và tài sản bảo đảm. Bên cạnh đó, các bộ/ngành chủ quản của khách hàng cũng cần có sự phối kết hợp chặt chẽ với ngân hàng trong kiểm tra giám sát tình hình kinh doanh của khách hàng và cùng nhau phối kết hợp xử lý các tình huống phát sinh khi có các tranh chấp tín dụng xảy ra, qua đó giúp cho việc xây dựng quan hệ chiến lược trong kinh doanh giữa ngân hàng và khách hàng.


KẾT LUẬN CHƯƠNG 3


Chương 3 của Luận án tập trung đề cập các định hướng lớn trong hoạt động kinh doanh của Agribank giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 và các quan điểm về quản trị RRTK. Từ đó, đã đề xuất hệ các giải pháp và kiến nghị đối với công tác quản trị RRTK tại Agribank thời gian tới. Các giải pháp chủ yếu tập trung vào việc xử lý các vấn đề còn bất cập hiện nay tại Agribank cụ thể tập trung vào 3 nhóm giải pháp chính: (i) Nhóm giải pháp phòng ngừa rủi ro thanh khoản; (ii) Nhóm giải pháp nâng cao năng lực quản trị rủi ro thanh khoản; (iii) Nhóm giải pháp hỗ trợ. Những giải pháp này có tính khả thi cao và đều có khả năng áp dụng tại Agribank. Đồng thời, Luận án cũng đưa ra một số kiến nghị đối với Chính phủ, NHNN và khách hàng của ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam nhằm bảo đảm thực thi hiệu quả các giải pháp đã đề xuất.


KẾT LUẬN


Hoạt động kinh doanh của NHTM luôn đối mặt với các rủi ro tiềm ẩn. Do kinh doanh của NHTM rất đa dạng và phức tạp, nên rủi ro cũng diễn biến rất phức tạp. Trong tất cả các loại rủi ro mà NHTM thường trực phải đối mặt, thì RRTK là rủi ro thường trực song lại nguy hiểm nhất, luôn đặt các NHTM trước các nguy cơ đổ vỡ và vì thế, quản trị RRTK luôn là vấn đề được đặt ra trong mọi giai đoạn phát triển của NHTM.

Luận án Quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam với mục đích tập trung đề cập các vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến quản trị RRTK tại các NHTM, lấy Agribank làm đối tượng chính để phân tích. Qua phân tích rút ra một số kết luận sau đây:

Thứ nhất, Hoạt động kinh doanh của các NHTM luôn tiềm ẩn rất nhiều loại rủi ro, trong đó RRTK là loại rủi ro mang tính chất thường trực do chịu sự chi phối bởi nhiều nhân tố chủ quan lẫn khách quan, do vậy, đặt ra yêu cầu các NHTM phải tăng cường công tác quản trị RRTK.

Thứ hai, Luận án đã tổng hợp các nghiên cứu có liên quan đến RRTK và quản trị RRTK ở NHTM, bao gồm cả các nghiên cứu quốc tế lẫn nghiên cứu trong nước và chỉ ra: Cho đến nay đã có rất nhiều nghiên cứu có liên quan đến RRTK và quản trị RRTK ở NHTM, các nghiên cứu tập trung vào việc làm rõ nguyên nhân RRTK, đo lường RRTK, lý giải nguyên nhân RRTK trong kinh doanh ngân hàng, nội dung quản trị RRTK trong ngân hàng, RRTK trong hệ thống NHTM Việt Nam, quản trị RRTK trong hệ thống NHTM Việt Nam cũng như tại một số NHTM riêng lẻ, từ đó đề xuất hệ thống giải pháp và kiến nghị phù hợp. Tuy vậy, các nghiên cứu trước đây vẫn còn nhiều hạn chế: chưa sử dụng mô hình kinh tế lượng đánh giá RRTK bằng đo lường các nhân tố ảnh hưởng, chủ yếu phân tích mô tả công tác quản trị RRTK trong một số NHTM hay sử dụng mô hình kiểm định độ căng thẳng thanh khoản song NCS nhận thấy chưa có bất cứ công trình nào đưa ra các đánh giá về công tác quản trị RRTK (hoặc có sự nhầm lẫn trong sử dụng các tỷ số đo lường

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/05/2023