Mối Quan Hệ Giữa Rủi Ro Thanh Khoản Và Rủi Ro Tín Dụng

24


Ngày 09/08/2007, sau khi thua lỗ nặng trên thị trường cho vay thế chấp dưới chuẩn tại Mỹ. Ngân hàng lớn nhất của Pháp BNP Paribas đóng băng hoạt động rút vốn từ 3 quỹ đầu tư.

Năm 2008, các hãng bảo hiểm đã ký hợp đồng bảo đảm cho các loại chứng khoán nợ thế chấp dưới chuẩn bị hạ xếp hạng tín dụng và sụp đổ.

Ngày 14/9/2008, Bank of America mua lại Merrill Lynch với giá 50 tỷ USD.

Ngày 17/9/2008, Cục Dữ trữ Liên bang Mỹ (Fed) chi 85 tỷ USD để cứu hãng bảo hiểm khổng lồ AIG khỏi nguy cơ phá sản.

Ngày 15/10/2008, thị trường cổ phiếu Mỹ trải qua thêm một ngày đen tối, với mức giảm kỷ lục 733 điểm (7,9%).

Tháng 11/2008 – đầu năm 2009, cuộc khủng hoảng tiếp tục hoành hành, gây thất nghiệp tràn lan. Ngày 9/3/2009, Thị trường chứng khoán Mỹ chạm đáy. Các ngân hàng liên tục công bố báo cáo tài chính thua lỗ.

Nguyên nhân

Cho vay dưới chuẩn tăng mạnh là khởi điểm cho quả bong bóng tại thị trường nhà đất. Các ngân hàng cho vay cầm cố bất động sản mà không quan tâm tới khả năng chi trả của khách. Bong bóng bất động sản càng lúc càng phình to đã đặt thị trường nhà đất và tiếp đó là tín dụng tại Mỹ cũng như nhiều quốc gia châu Âu vào thế nguy hiểm.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.

1.1.5. Mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng

1.1.5.1. Mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng

Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản, rủi ro tín dụng đến tính bền vững của Ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam năm 2008 - 2018 - 5

Hiện nay, đã có không ít công trình nghiên cứu khác nhau nói về mối quan hệ giữa RRTK và RRTD cũng như ảnh hưởng tới tính bền vững tại các NHTM Việt Nam ở nhiều khía cạnh khác nhau. Đây là hai nguyên nhân chính dẫn đến mất khả năng thanh toán, sự ổn định và nguy cơ vỡ nợ của Ngân hàng đối với khách hàng.

Như vậy, Ngân hàng cần phải có sự quản lý chặt chẽ giữa thanh khoản và tín dụng để hoạt động kinh doanh của Ngân hàng được an toàn, phát triển, tránh nguy cơ mất khả năng thanh toán và vỡ nợ.

25


Tín dụng là hoạt động kinh doanh tuy mang lại nhiều lợi nhuận nhưng cũng gặp không ít khó khăn chẳng hạn như tình hình căng thẳng về thanh khoản của Ngân hàng hiện nay, buộc các NHTM phải tìm nguồn tài trợ khi sự cạnh tranh giữa các Ngân hàng ngày càng khốc liệt hơn..

Như ta cũng biết, rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng đều có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thanh toán và ổn định tình hình hoạt động của Ngân hàng. Khi rủi ro tín dụng xảy ra, điều đồng nghĩa với việc chất lượng của tài sản bị giảm đi, nợ xấu và chi phí xử lý nợ xấu gia tăng, … từ đó ảnh hưởng đến uy tín của Ngân hàng và đặc biệt hơn là giảm lợi nhuận. RRTK ảnh hưởng đến lượng cung tiền mặt, nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của Ngân hàng cho khách hàng bất cứ lúc nào cần, đặc biệt đến nguồn vốn ngắn hạn, khi duy trì được nguồn vốn ngắn hạn này sẽ có ý nghĩa nhiều trong việc đáp ứng nhu cầu cho vay dài hạn đối với những phương án vay ít rủi ro.

Vậy RRTD và RRTK quan hệ với nhau như thế nào?

Theo lý thuyết cơ bản về kinh tế vi mô trong hoạt động Ngân hàng đưa ra quan điểm rằng, RRTK và RRTD có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Acharya và Mora (2013) chỉ ra rằng, sự thất bại của những Ngân hàng trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế và bị thiệt hại do sự mất khả năng thanh toán từ giai đoạn trước khi vỡ nợ thực sự xảy ra. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến mất thanh toán, vỡ nợ của các Ngân hàng.

Theo Cole và White (2012, trang 5-29): rủi ro tín dụng tạo ra một mối đe dọa nghiêm trọng đối với sự ổn định của Ngân hàng trong suốt giai đoạn khủng hoảng kinh tế. Còn nghiên cứu của Imbierowicz và Rauch (2014, trang 242-256) cũng cung cấp bằng chứng, tồn tại mối quan hệ cùng chiều giữa RRTD và RRTK của Ngân hàng trong suốt thời kỳ kinh tế ổn định cũng như thời kỳ khủng hoảng.

Mô hình của Monti-Klein và những mở rộng của mô hình này của Prisman et al. (1986, trang 575 - 584) cho rằng: “việc trả nợ không đúng kỳ hạn hay mất khả năng trả nợ của người đi vay tiền cùng với việc rút tiền đột ngột khỏi tài khoản từ các quỹ được cho là nguyên nhân làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng. Bởi ngoài vốn cổ phần, những

26


khoản nợ khác và chứng khoán sẵn sàng bán thì một ngân hàng muốn tối đa hóa lợi nhuận khi và chỉ khi gia tăng khoảng cách của lãi suất tiết kiệm và cho vay, từ đó hình thành một tỷ lệ tái cấp vốn ngoại sinh cũng như dẫn đến rủi ro ngẫu nhiên từ những người đi vay tiền và rút tiền từ các quỹ”.

Theo Samartı́n (2003, trang 133-140) và Iyer and Puria (2012) thì cho rằng: “những yếu tố ngoại sinh của mô hình chỉ ra những tài sản rủi ro của Ngân hàng cùng với sự không chắc chắn về thanh khoản của nền kinh tế là nguyên nhân khơi mào làm

cho hoạt động Ngân hàng trở nên hoảng loạn đồng thời cho rằng rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng sẽ quan hệ cùng chiều và cùng nhau góp phần gây nên sự mất ổn định trong Ngân hàng”.

Còn đối với Mô hình của Acharya and Viswanathan (2011, trang 99-138) dựa trên giả định rằng: “những công ty tài chính tăng khoản nợ lên và tái tục qua các năm cũng được xem như là tài sản tài chính. Một khi nợ trong hệ thống Ngân hàng càng nhiều thì lợi tức hoạt động của Ngân hàng càng gặp rủi ro đặc biệt trong thời kỳ khủng hoảng khi mà giá trị của tài sản bị hao hụt, ngân hàng gặp khó khăn trong việc xoay sở các khoản nợ và khi đó ngân hàng gặp vấn đề về thanh khoản”.

Ta thấy rằng RRTD cùng với RRTK phụ thuộc rất nhiều vào nhu cầu của khách hàng - người gửi tiền bởi vì nếu trong quá trình hoạt động kinh doanh mà Chủ đầu tư có quá nhiều dự án, mô hình hoạt động … không khả thi, rủi ro, không mang lợi nhuận về mà chính nguồn vốn sử dụng để đầu tư vào các hoạt động đó xuất phát từ các khoản vay thì Ngân hàng không thể thỏa mãn nhu cầu của những người gửi tiền khi họ cần rút tiền. Nếu những tài sản của những dự án này ngày càng giảm giá trị thì ngày càng nhiều người gửi tiền sẽ yêu cầu lấy lại những khoản tiền gửi của họ gây ra tình trạng rút tiền một cách ồ ạt và thường xuyên và tình trạng rủi ro thanh khoản là vấn đề trong một sớm một còn.

Hoặc một khi các khoản vay trong hệ thống Ngân hàng càng nhiều thì hoạt động của Ngân hàng càng gặp rủi ro đặc biệt trong thời kỳ khủng hoảng khi mà tài sản bị

27


giảm giá trị, Ngân hàng sẽ gặp khó khăn trong việc xoay sở các khoản nợ và thanh khoản là vấn đề báo động hiện tại của Ngân hàng.

Từ những lý thuyết được trình bày ở bên trên cho thấy rằng mối quan hệ giữa RRTD và RRTK được thiết lập rất rò ràng và thấy rằng hai rủi ro trên tồn tại quan hệ cùng chiều tác động đến tính bền vững của Ngân hàng, đảm bảo khả năng thanh toán của Ngân hàng và để rõ hơn Chương 3 sẽ làm sáng tỏ kết luận nêu trên.

Nhìn chung, thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu khác về mối quan hệ giữa RRTK và RRTD tại các NHTM Việt Nam. Mặc dù, có nhiều nghiên cứu đã khẳng định rò mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng từ nhiều góc độ khác nhau nhưng có rất ít nhà nghiên cứu, công trình nghiên cứu thực nghiệm phân tích rò tác động của RRTK, RRTD đến tình hình hoạt động của Ngân hàng.

Còn đối với bài nghiên cứu này, mục tiêu chính là giải quyết vấn đề nêu trên, bài viết sẽ sử dụng các số liệu từ báo cáo tài chính của 30 Ngân hàng TMCP Việt Nam được niêm yết chính thức trên Sở Giao dịch Chứng khoán TP. Hồ Chí Minh (HOSE) và Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) từ năm 2008 - 2018. Từ kết quả nghiên cứu có được sẽ đề ra các giải pháp thích hợp, nhằm giảm thiểu RRTK và RRTD trong việc kiểm soát vấn đề mất khả năng thanh toán, ổn định hiệu quả hoạt động kinh doanh tại các Ngân hàng TMCP Việt Nam.

Theo Dermine (1986, trang 99-114) cho rằng “RRTK được xem như là một khoảng chi phí làm giảm lợi nhuận và sự bất cân xứng thông tin trong thị trường cho vay gây rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng”. Một khoản vay mặc định làm tăng rủi ro thanh khoản bởi vì dòng tiền mặt giảm và khấu hao mà nó gây ra. Có sự chuyển động cùng chiều giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng. Dựa trên lý thuyết trung gian tài chính của Bryant (1980, trang 335-344) và Diamond & Dybvig (1983, trang 401-419) và cách tiếp cận tổ chức đối với ngân hàng, mô hình Monti-Klein của các tổ chức Ngân hàng Prisman, Slovin, & Sushka (1986, trang 293-304), mối quan hệ giữa thanh khoản và tín dụng thì rủi ro luôn luôn tồn tại và tác động đến sự bền vững của Ngân hàng.

28


Diamond và Rajan (2005, trang 10071) thấy rằng nếu có quá nhiều dự án kinh tế được tài trợ bằng các khoản vay đến từ Ngân hàng mà không thể đáp ứng nhu cầu của người gửi tiền. Như vậy, những người gửi tiền sẽ đòi lại tiền của họ nếu những tài sản này bị giảm giá trị. Điều này ngụ ý rằng, RRTK và RRTD luôn luôn xảy ra đồng biến với nhau. Và đây cũng chính là kết quả của nghiên cứu Imbierowicz và Rauch (2014, trang 242-256) - ông đã kiểm tra mối quan hệ giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng tại các ngân hàng Mỹ trong giai đoạn 1998-2010. Ngân hàng sẽ sử dụng tất cả các khoản vay và giảm tổng thể thanh khoản. Kết quả là rủi ro tín dụng cao kéo theo rủi ro thanh khoản tăng.

1.1.5.2. Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng

Trên thực tế đã có rất nhiều công trình nghiên cứu hoặc bài viết, báo đã chỉ ra rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh cũng như sự ổn định, tồn tại của các Ngân hàng.

Mối quan hệ giữa RRTD với RRTK và nguyên nhân cốt lòi gây ra sự vỡ nợ chính là các món nợ chồng chất qua thời gian dài. Khi thị trường trái phiếu đang kém thanh khoản, các công ty mang theo gánh nặng những khoản nợ càng ngày càng tăng lên qua các năm và để tránh sự vỡ nợ, biện pháp cứu cánh tức thì hiện tại là công ty phát hành phải thanh toán cho sự chênh lệch. Và cuối cùng một cú sốc thiếu thanh khoản của các tổ chức này có thể là hiệu ứng dây chuyền và gây ra tỷ lệ vỡ nợ cao hơn cho toàn hệ thống.

Ta thấy rằng, những hoạt động đầu tư vượt mức của Ngân hàng chủ yếu tập trung vào cho vay bất động sản sẽ làm tăng nguy cơ vỡ nợ một khi thị trường rơi vào tình trạng khủng hoảng, bong bóng nhà đất ….. từ đó dẫn tới tình trạng rủi ro thanh khoản.

Theo Rashid và Jabeen (2016, trang 834) đã thực nghiệm để xem xét các yếu tố quyết định đến Ngân hàng, tài chính và kinh tế vĩ mô đối với hoạt động của các Ngân hàng Hồi giáo và Pakistan trong giai đoạn 2006-2012. Và ông đã tìm thấy rằng hiệu

29


quả hoạt động, chi phí chung và tỷ lệ dự trữ bắt buộc là những yếu tố quyết định đáng kể đến hiệu quả hoạt động của các Ngân hàng thông thường, trong khi tiền gửi, hiệu quả hoạt động và thị trường tập trung là những yếu tố quyết định quan trọng của đạo Hồi. Bên cạnh đó không thể không nhắc tới GDP và lãi suất cho vay đối với hiệu suất cho các Ngân hàng Hồi giáo và thông thường.

Còn đối với Brunnermeier et al. (2009, trang 78-98) cho rằng sự gia tăng của yêu cầu vốn có thể đồng thời quản lý thanh khoản và rủi ro khả năng thanh toán của Ngân hàng. Theo Ratnovski (2013), vấn đề tái cấp vốn Ngân hàng có thể là do vấn đề về khả năng thanh toán. Điều này gây ra rằng sự kết hợp đồng thời của yêu cầu thanh khoản và minh bạch về khả năng thanh toán sẽ giải quyết vấn đề tái cấp vốn của Ngân hàng.

Mặt khác, Calomiris et al. (2015, trang 291) phát triển lý thuyết về yêu cầu thanh khoản ngân hàng nơi thấy rằng các Ngân hàng nên quy định về tài sản thay vì là nguồn vốn như trước đó. Đối với họ, các Ngân hàng nên nắm giữ nhiều tài sản lưu động hơn vì điều đó sẽ cho phép họ đối mặt với rủi ro thanh khoản và đưa ra nhưng phương án quản lý và giám sát tốt hơn đối với các rủi ro hay gặp phải.

Ngân hàng là nhà cung cấp thanh khoản đóng vai trò rất quan trọng trong cuộc khủng hoảng tài chính. Đã có nhiều bằng chứng để chứng minh cho việc tài chính bị khủng hoảng, thiếu hụt thanh khoản một cách trầm trọng trong thời gian gần đây gây ảnh hưởng đáng kể đến nhiều Ngân hàng một cách trầm trọng. Nghiên cứu cho thấy các Ngân hàng đang gặp khó khăn hoặc gần như thất bại thì trước đó sẽ thu hút tiền gửi bằng cách áp dụng chính sách kích cầu để thu hút khách hàng bằng cách tăng lãi suất thậm chí là rất cao.

Nhìn chung, những Ngân hàng rơi vào tình trạng khó khăn đang phải đối mặt với những vấn đề thanh khoản và tín dụng hết sức nghiêm trọng, đây được coi là thước đó sức khỏe của của Ngân hàng hiện nay. Như vậy, sự thất bại hay gần như thất bại của các Ngân hàng có một phần nguyên nhân từ công cuộc chạy đua tăng lãi suất huy động, giảm lãi suất tín dụng để thu hút nguồn vốn từ thị trường của công chúng. Chính vì vậy,

30


kết quả của nghiên cứu này sẽ chỉ ra một sự thật là RRTK và RRTD nếu xảy ra đồng thời có thể là nguyên nhân gây ra bất ổn định, tình hình hoạt động căng thẳng và lớn hơn sự vỡ nợ của Ngân hàng.

1.1.5.3. Một số nghiên cứu nước ngoài liên quan

Cuộc khủng hoảng tài chính những năm trước đây đã dẫn đến những thất bại của nhiều Ngân hàng chính vì vậy đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế. Do đó, ngày nay, các nhà kinh tế luôn đặc biệt chú ý đến hậu quả của sự bất ổn tài chính nền kinh tế, những rủi ro tài chính bao gồm cơ hội người gửi đột ngột rút tiền gửi (rủi ro thanh khoản), người vay sẽ không trả nợ đúng hạn (RRTD), rủi ro lãi suất, … Tuy nhiên, trong số những rủi ro này, rủi ro tín dụng và rủi ro thanh khoản không chỉ là rủi ro quan trọng nhất mà Ngân hàng phải đối mặt mà có liên quan trực tiếp đến những gì Ngân hàng tạo ra.

Theo báo cáo chính thức của FDIC (Federal Deposit Insurance Corporation - Công ty Bảo hiểm Ký thác Liên bang Hoa Kỳ) và OCC (Cục Kiểm Soát Tiền Tệ Liên Bang) đã chỉ ra rằng nguyên nhân chính gây ra thất bại của Ngân hàng thương mại khác nhau trên thế giới gần đây. Bên cạnh đó, Ngân hàng lớn nhất Thụy Sĩ UBS khẳng định rằng tình trạng hiện nay của đa số các Ngân hàng không phân biệt giữa tài sản lưu động, tài sản kém thanh khoản hay tài trợ có kỳ hạn tương ứng và do đó cũng không tính đến rủi ro tín dụng của tài sản.

Theo Diamond và Rajan (2005) thấy rằng: “tồn tại mối quan hệ cùng chiều giữa rủi ro thanh khoản và rủi ro tín dụng”. Họ cho rằng: “nếu có quá nhiều dự án kinh tế được tài trợ bằng các khoản vay từ Ngân hàng không thể đáp ứng nhu cầu của người gửi tiền. Như vậy, những người gửi tiền sẽ đòi lại tiền của họ nếu những tài sản này giảm giá trị. Điều này ngụ ý rằng rủi ro thanh khoản và tín dụng đồng thời xảy ra”.

Hay theo Acharya & Viswanathan (2011, trang 15837) thì Ngân hàng hầu như sẽ sử dụng tất cả các cho tiền gửi khoản vay từ đó làm giảm tổng thể nguồn thanh khoản và kết quả là RRTDS cao đi kèm theo đó là rủi ro thanh khoản tăng. Theo Nikomara,

31


Taghavi và Diman (2013, trang 238-248) là những chuyên gia nghiên cứu mối quan hệ giữa RRTD và RRTK cho các Ngân hàng Iran bao gồm tất cả các Ngân hàng tư nhân và chính phủ trong giai đoạn 2005 – 2012 khẳng định rằng có một mối quan hệ cùng chiều giữa RRTD và RRTK.

Theo Rashid và Jabeen (2016, trang 92-107) thấy rằng hiệu quả hoạt động, chi phí chung và dự trữ là những yếu tố quyết định đáng kể đến hiệu suất hoạt động của một Ngân hàng, trong khi tiền gửi, hiệu quả hoạt động là những yếu tố quyết định quan trọng của Ngân hàng Hồi giáo. Bên cạnh đó, GDP và lãi suất cho vay cũng là yếu tố khổng thể không kể đến.

Như ta đã biết, Rủi ro tín dụng (credit risk) và rủi ro thanh khoản (liquidity risk) là hai loại rủi ro chính trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Đây là những nguyên nhân dẫn đến yếu kém của hệ thống NHTM Việt Nam dẫn đến phải tiến hành tái cấu trúc trong thời gian qua. Quá trình tái cấu trúc hệ thống NHTM vẫn đang diễn qua, nhưng câu hỏi đặt ra: Nên dùng phương pháp quản lý nào để đánh giá, dự báo rủi ro tín dụng sớm nhằm giúp Ngân hàng kịp thời đưa ra biện pháp can thiệp, giải quyết thích hợp. Ứng dụng mô hình Z – score có thể là câu trả lời thích hợp.


Kết luận Chương 1:

Ta thấy rằng RRTD và RRTK là hai trong những rủi ro và có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Vì vậy, thấy được những ảnh hưởng mà hai rủi ro trên mang lại, Nhà quản trị Ngân hàng cần phải thận trọng và chú ý nhiều hơn để nhận biết dấu hiệu của rủi ro cũng như tìm ra phương pháp phòng chống, ngăn chặn kịp thời. Bởi một khi Ngân hàng gặp khó khăn về tín dụng từ đó sẽ ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản và kéo theo những hệ lụy không thể lường trước được sau đó.

Xem tất cả 102 trang.

Ngày đăng: 02/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí