Nhóm Giải Pháp Nâng Cao Năng Lực Quản Trị Rủi Ro Thanh Khoản


tại một bộ phận thuộc khối tác nhiệp. Việc quản lý tài khoản Nostro phải đảm bảo được ba mục tiêu: một là, đảm bảo mức dự trữ tiền đồng tại NHNN luôn đạt yêu cầu về dự trữ bắt buộc của NHNN; hai là, phối hợp được với các phòng tác nghiệp quản lý luồng tiền đi và đến của ngân hàng, bao gồm phòng thanh toán trong nước, phòng thanh toán quốc tế để dự báo được nhu cầu sử dụng tiền trên tài khoản Nostro trong 1 ngày tại ngân hàng, cũng như luồng tiền được ghi “có” vào tài khoản trong ngày; ba là, sử dụng hiệu quả tiền trên tài khoản Nostro vào các nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ và thị trường tiền tệ để thực hiện mục đích tối đa hóa lợi nhuận cho ngân hàng.

3.3.2. Nhóm giải pháp nâng cao năng lực quản trị rủi ro thanh khoản

3.3.2.1. Xây dựng khuôn khổ, hoàn thiện chính sách, quy trình, phương pháp quản trị rủi ro thanh khoản

Để đổi mới hoạt động quản trị RRTK theo phương pháp hiện đại, phù hợp với thông lệ quốc tế, đòi hỏi Agribank trước hết phải xây dựng được một chiến lược thanh khoản phù hợp trên cơ sở xác định được các công cụ kế hoạch hóa, các hạn mức… đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trên thực tế, tầm quan trọng của thanh khoản vượt quá phạm vi của từng ngân hàng riêng rẽ bởi vì một sự thiếu hụt thanh khoản tại một ngân hàng nào đó có thể gây hiệu ứng nghiêm trọng đến toàn hệ thống. Chính vì vậy, việc quản trị RRTK yêu cầu các nhà quản trị thanh khoản phải thường xuyên xác định trạng thái thanh khoản của ngân hàng mình, hơn nữa, cũng cần phải đánh giá xem các yêu cầu tài trợ vốn sẽ thay đổi như thế nào trong nhiều tình huống khác nhau, bao gồm cả những tình huống khủng hoảng thanh toán. Trong điều kiện bình thường, nếu một NHTM không xây dựng được một chiến lược hiệu quả để duy trì thanh khoản đầy đủ, thì khi tình huống có khó khăn về nguồn vốn sẽ ảnh hưởng xấu đến các kế hoạch kinh doanh của ngân hàng và đặc biệt là nếu như trong tình huống xấu nhất, nếu có khủng hoảng ngân hàng xảy ra thì sự tồn tại của ngân hàng sẽ bị đe dọa.

Xuất phát từ đó, đòi hỏi Agribank cần phải thiết lập một chiến lược thống nhất về quản trị RRTK và chiến lược này phải được phổ biến trong toàn hệ thống.


Chiến lược quản trị RRTK bao gồm các chính sách cụ thể về một số khía cạnh nhất định của quản trị RRTK: Cơ cấu tài sản Nợ, tài sản có, cách thức quản trị khả năng thanh khoản bằng các đồng tiền khác nhau, việc sử dụng các công cụ tài chính, tính lỏng và tính khả mại của các tài sản có… Trên thực tế, công tác quản trị RRTK không chỉ là trách nhiệm của một bộ phận nào đó, chẳng hạn là bộ phận quản trị RRTK độc lập của ngân hàng, mà là trách nhiệm của tất cả các những bộ phận kinh doanh trong ngân hàng với các hoạt động có nguy cơ xói mòn năng lực thanh khoản của ngân hàng đều phải nhận thức được chiến lược thanh khoản và hoạt động theo các cơ chế, chính sách cũng như tuân thủ các giới hạn đã được Ban lãnh đạo của ngân hàng phê duyệt.

Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần có một cơ cấu quản lý để thực thi có hiệu quả chiến lược quản trị RRTK. Trách nhiệm hoạch định chính sách quản trị RRTK và đánh giá lại các quyết định về quản trị thanh khoản tổng thể của ngân hàng phải được giao cho cấp quản lý cao nhất của ngân hàng và trách nhiệm quản trị thanh khoản tổng thể phải được giao cho một nhóm người cụ thể trong ngân hàng. Đồng thời, Ban Tổng Giám đốc của Agribank phải đặt ra các giới hạn để đảm bảo thanh khoản đầy đủ, có thể xác định các giới hạn đối với các chênh lệch dòng tiền lũy kế trong những thời kỳ nhất định. Mặt khác, chiến lược quản trị RRTK cũng cần đưa ra các tình huống khủng hoảng thanh khoản giả định, qua đó, kiểm tra sức chịu đựng RRTK của ngân hàng cũng như đưa ra các giới hạn tương ứng để bảo đảm tính linh hoạt và tính thực tiễn. Chiến lược quản trị RRTK còn cần thể hiện được kế hoạch dự phòng trong tình huống có rủi ro, bởi khi khủng hoảng xảy ra, thì ngân hàng sẽ có rất ít thời gian cho việc lập kế hoạch, khi đó, ban Lãnh đạo của ngân hàng sẽ phải đưa ra các quyết định nhanh dựa trên các số liệu thực tế. Bởi vậy, một kế hoạch dự phòng có thể giúp ban Lãnh đạo của ngân hàng sẵn sàng ứng phó với các tình huống rủi ro phát sinh. Khả năng chống đỡ những cú sốc tạm thời hoặc kéo dài về thanh khoản của ngân hàng với chi phí hợp lý có thể phụ thuộc vào tính đầy đủ của các kế hoạch dự phòng chính thức. Kế hoạch dự phòng phải nêu rõ các cơ chế để đảm bảo rằng các luồng thông tin là kịp thời và liên tục, cung cấp cho Ban lãnh


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 224 trang tài liệu này.

đạo của ngân hàng những thông tin cập nhật, chính xác để đưa ra các quyết định nhanh. Một sự phân chia trách nhiệm rõ ràng phải được đưa vào kế hoạch này để tất cả những người có liên quan biết được họ sẽ phải làm gì trong tình huống khẩn cấp. Bên cạnh đó, kế hoạch dự phòng phải bao gồm cả việc duy trì mối quan hệ khách hàng với các chủ sở hữu tài sản Nợ, các khách hàng vay, các đối tác kinh doanh, cơ chế bù đắp lượng tiền mặt thiếu hụt trong những tình huống xấu và phải xác định, lượng hóa và sắp xếp theo thứ tự ưu tiên rõ ràng tất cả các nguồn cung cấp vốn.

Để đổi mới quản trị RRTK theo hướng hiện đại, yêu cầu Agribank phải đổi mới hoàn thiện các cơ chế, chính sách có liên quan, trên cơ sở vận dụng linh hoạt các phương pháp phân tích thanh khoản. Có một số phương pháp giúp ngân hàng phân tích thanh khoản, trong đó ngân hàng có thể sử dụng 2 phương pháp là phân tích thanh khoản tĩnh và phân tích thanh khoản động.

Quản trị rủi ro thanh khoản tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - 21

Phương pháp phân tích thanh khoản tĩnh yêu cầu ngân hàng luôn phải duy trì một lượng cụ thể về tài sản thanh khoản tương quan với những khoản nợ tại mỗi thời điểm nhất định. Nó bảo đảm rằng ngân hàng có đủ những tài sản dự trữ thứ cấp có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt để làm tăng vốn khả dụng đáp ứng bất kỳ nhu cầu chi trả nào. Tuy vậy, từ thực tiễn hoạt động tại ngân hàng cho thấy rằng việc tuân thủ các yêu cầu về tỷ lệ tài sản thanh khoản không chỉ ra được tình trạng thanh khoản thực tế của ngân hàng. Danh mục kỳ hạn tài sản Có và tài sản Nợ của ngân hàng phụ thuộc vào loại thị trường cụ thể tài trợ cho chúng và điều này đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng đến trạng thái thanh khoản của ngân hàng. Cũng có nghĩa rằng một chính sách quản trị RRTK hiệu quả không chỉ phụ thuộc vào “lớp đệm” do tài sản dự trữ, mà còn phụ thuộc vào sự quản lý, theo dõi và dự báo trạng thái thanh khoản trong tương lai cũng như chính sách đa dạng về nguồn tài trợ. Sự duy trì các tỷ lệ tài sản thanh khoản có thể dẫn đến việc ngân hàng nắm giữ một lượng quá mức tài sản thanh khoản để bù đắp rủi ro, từ đó sẽ làm giảm hiệu quả kinh doanh. Hoặc ngược lại, việc nắm giữ một lượng tài sản thanh khoản quá ít không đủ cho yêu cầu thanh khoản sẽ dẫn đến RRTK.


Để khắc phục những hạn chế trong phương pháp phân tích thanh khoản tĩnh thì ngân hàng có thể vận dụng kết hợp với phương pháp phân tích thanh khoản động

- là phương pháp đánh giá trạng thái thanh khoản của ngân hàng. Việc áp dụng kết hợp 2 phương pháp này sẽ giúp: (i) Cảnh báo đối với ngân hàng từ cơ cấu nguồn vốn và khả năng xử lý các vấn đề thanh khỏan từ ngắn hạn đến dài hạn; (ii) Tổ chức lại mô hình quản trị RRTK, đảm bảo bộ phận quản trị thanh khoản luôn được cung cấp thông tin kịp thời, chính xác; (iii) Cung cấp một phương tiện tốt hơn trong đánh giá trạng thái thanh khoản hiện tại và tương lai của ngân hàng.

3.3.2.2. Hoàn thiện hệ thống báo cáo liên quan đến rủi ro thanh khoản

Hiện nay, Agribank đã tiến hành định kỳ một số các báo cáo liên quan đến hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản như sau: Báo cáo dòng tiền tích lũy; Báo cáo tỉ lệ thanh khoản; Báo cáo về khả năng thanh khoản, báo cáo cấu trúc thành phần tài sản nợ, có và các chỉ tiêu về thanh khoản so với hạn mức đặt ra; Báo cáo tình hình đầu tư của ngân hàng.

Các báo cáo này về cơ bản đã cung cấp thông tin một cách sơ bộ đến cấp quản trị ngân hàng để có cơ sở đưa ra những quyết định điều hành bảo đảm an toàn cho hoạt động của ngân hàng. Tuy nhiên, để các quyết định được đưa ra một cách chính xác và toàn diện thì cần bộ phận phụ trách quản trị rủi ro của Agribank phối hợp với các bộ phận liên quan cung cấp các báo cáo tổng hợp thông tin đa chiều và sâu sắc hơn nữa, cụ thể cần tổng hợp thêm các báo cáo:

a. Báo cáo Chênh lệch Cơ Cấu

Tính hữu ích của loại báo cáo này giới hạn trong việc xác định “chênh lệch” về mặt lý thuyết giữa các tài sản, công nợ dài hạn và ngắn hạn. Vấn đề phát sinh đối với các sản phẩm và với các khoản mục thuộc bảng cân đối kế toán không có ngày kết thúc theo hợp đồng như các tài khoản vãng lai, tài khoản tiết kiệm không kỳ hạn, vốn, tài sản cố định và các khoản mục tương tự. Chúng ta cần sử dụng các giả thiết để lập báo cáo.

Những khoản mục như vốn, tài sản cố định, tài sản khác và công nợ tốt nhất nên được đặt trong biên độ hoặc “nhóm” kỳ hạn dài nhất. Các sản phẩm tài sản và


công nợ liên quan tới khách hàng mà không có kỳ hạn xác định cũng cần được phân bổ vào các biên độ kỳ hạn. Mục đích duy nhất của báo cáo này là chỉ rõ chênh lệch cơ cấu. Những kỳ hạn này tốt nhất được phân phối trong thời gian ngắn hạn như 1 tuần và 1 tháng.

Báo cáo này được xây dựng trên cơ sở sử dụng ngày đáo hạn cuối cùng theo hợp đồng của các sản phẩm và khoản mục thuộc bảng cân đối kế toán. Các biên độ kỳ hạn được khuyến nghị là:

- 1 tuần

- 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng, trên 6 tháng đến 12 tháng

- Trên 1 năm-2 năm, trên 2 năm-3 năm, trên 3 năm-4 năm, trên 4 năm-5 năm

- Trên 5 năm

b. Báo cáo Rủi ro Vốn (Thanh khoản ngắn hạn)

Mục đích của báo cáo này là nhằm đánh giá kịch bản nếu tình huống xấu nhất xảy ra. Từ trước tới nay, các ngân hàng trung ương yêu cầu các ngân hàng phải tuân theo hình thức chỉ tiêu thanh khoản nào đó, thể hiện mối quan hệ giữa các tài sản thanh khoản và các công nợ ngắn hạn. Vấn đề đối với chỉ tiêu “kế toán” này là thiếu những yếu tố chứng tỏ là rất quan trọng khi khủng hoảng thanh khoản thực sự xảy ra trong thực tế:

- Khả năng huy động vốn của Khối Nguồn vốn trên thị trường liên ngân hàng

- Yếu tố thời gian: Có thể huy động hoặc cho vay bao nhiêu trong khoảng thời gian như thế nào?

- Thời gian cần phải có trước khi các ngân hàng bắt đầu bán một số tài sản nhất định

- Các ngân hàng có xu hướng bán các tài sản tại mức giá nào?

- Bản chất của khủng hoảng thanh khoản: có tính hệ thống hay chỉ cục bộ trong ngân hàng?

- Khả năng các ngân hàng sẽ tiếp tục cung cấp dịch vụ cho khách hàng như bình thường?


- Luồng tiền tạo ra từ kết quả của các công cụ phái sinh và các hoạt động ngoại bảng cân đối kế toán?

Báo cáo này sử dụng kỳ hạn 1 tuần và 1 tháng. Báo cáo này chỉ dựa trên một số lượng hạn chế các khoản mục thuộc bảng cân đối kế toán. Các khoản mục không có ngày đáo hạn được tính theo một trọng số tương ứng. Tổng tài sản thanh khoản (thanh khoản thực có) phải bằng hoặc lớn hơn tổng công nợ (thanh khoản cần có).

Các giả thiết được sử dụng như sau:

- Trong tuần đầu tiên, Khối Nguồn vốn sẽ cố gắng để quản lý trạng thái thanh khoản của Ngân hàng trên thị trường liên ngân hàng, chỉ các khoản mục tới hạn thường được Khối Nguồn vốn sử dụng được tính đến.

- Việc tính toán tính thanh khoản trong thời gian 1 tháng bao gồm các khoản mục như đối với thời gian 1 tuần cộng thêm các khoản mục khác là các công cụ và sản phẩm quản lý thanh khoản của Khối Nguồn vốn và ALCO.

- Ngân hàng sẽ tiếp tục phục vụ khách hàng như bình thường. Chỉ một số tài sản sẽ được bán – với mức giá chiết khấu – những tài sản này thường do Khối Nguồn vốn kiểm soát theo chỉ định của ALCO nhằm mục đích quản lý tính thanh khoản như trái phiếu trong các danh mục kinh doanh và đầu tư (kế hoạch cấp vốn dự phòng).

- Mọi luồng tiền tiềm năng được xét tới là luồng tiền phát sinh do hoặc có thể là kết quả của (hoạt động kinh doanh) sản phẩm phái sinh và các giao dịch ngoại bảng cân đối kế toán khác.

- 2 tình huống được sử dụng: Khủng hoảng thanh khoản toàn diện (có tính hệ thống) hoặc tình huống trong đó chỉ có ngân hàng báo cáo phải chịu các vấn đề về thanh khoản.

- Các khoản mục không kỳ hạn thích hợp được tính trọng số theo kỳ báo cáo (1 tháng, 1 tuần) và loại hình đối tác.

c. Báo cáo dự tính thanh khoản trong điều kiện kinh doanh bình thường

Mục đích của báo cáo này là nhằm mô phỏng hay dự tính trạng thái thanh khoản thông thường mà Ngân hàng sẽ có, với giả thiết “hoạt động kinh doanh bình


thường”. Rõ ràng rằng thông thường, tất cả các khách hàng gửi tiền không đồng thời rút toàn bộ tiền mặt của mình cùng một lúc. Hành vi khách hàng cho thấy những xu hướng nhất định dựa trên sở thích về sản phẩm và dự tính về tỷ giá.

Các ngân hàng cố gắng gây ảnh hưởng tới hành vi khách hàng theo những cách nhất định bằng cách cung cấp các sản phẩm mới, thay đổi giá và chính sách định giá nhằm đạt được ngân sách đã đề ra về doanh số và thu nhập. Các ngân hàng cũng xây dựng các kế hoạch vốn và đầu tư để xử lý chênh lệch cơ cấu và tuân thủ các chỉ tiêu về thanh khoản và cân đối kế toán khác. Thật không may, khách hàng hiếm khi thực hiện theo dự tính và do vậy, sẽ có ích nếu đo lường và so sánh được các xu hướng thực tế với các mục tiêu ngân sách.

Phương pháp hồi quy tuyến tính có thể được sử dụng cho mọi loại sản phẩm có thể “thể hiện hành vi” khác so với lịch đáo hạn. Công nợ có kỳ hạn cố định là một trường hợp phản ánh rõ vấn đề này. Hầu hết các khoản tiền gửi kỳ hạn cố định đều được quay vòng hoặc được gửi lại dưới dạng các khoản tiền gửi mới. Một ví dụ khác là cho vay kỳ hạn cố định. Ngày đáo hạn thể hiện một lịch đáo hạn nhất định, ngân sách dự toán đưa ra một lịch đáo hạn khác, sự biến động thực tế của doanh số có thể lại khác hẳn. Các ngân hàng có thể điều chỉnh lượng (cung cấp) các khoản cho vay khi có nhu cầu của khách hàng nhưng sẽ rất khó để tạo ra doanh số cho vay nếu nhu cầu không tồn tại. Các ngân hàng sẽ rất khó khăn trong việc tăng doanh số tiền gửi kỳ hạn cố định khi khách hàng ưa thích các công cụ có lãi suất biến đổi hơn do hy vọng lãi suất sẽ tăng.

3.3.2.3. Đa dạng hóa các công cụ dự phòng rủi ro thanh khoản

Tài sản dự phòng thanh khoản của các NHTM Việt Nam hiện nay nhìn chung còn khá đơn diệu, chúng bao gồm các tín phiếu NHNN, tín phiếu Kho bạc Nhà nước. Do vậy, trong thời gian tới đòi hỏi các NHTM Việt Nam, trong đó có Agrbank, phải tìm cách da dạng hóa các công cụ dự phòng thanh khoản. Việc đa dạng hóa các công cụ dự trữ thanh khoản thứ cấp sẽ giúp tăng tính linh hoạt cho ngân hàng trong việc bán tài sản để đáp ứng yêu cầu thanh khoản, hơn nữa, nó còn giúp tăng tính sinh lời của các tài sản thanh khoản này. Các tài sản có thể đưa vào


danh mục dự trữ thanh khoản thứ cấp của ngân hàng bao gồm: các giấy tờ có giá do các TCTD khác phát hành trên thị trường có khả năng chiết khấu, các trái phiếu Chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương.

Nhưng có một thực tế là việc đa dạng hóa các công cụ dự phòng thanh khoản của các NHTM phụ thuộc rất lớn vào mức độ phát triển của thị trường tài chính, trong đó đặc biệt là thị trường chứng khoán. Hiện nay, thị trường tài chính của Việt Nam còn chưa thực sự phát triển, các công cụ tài chính trên thị trường còn tương đối nghèo nàn, giao dịch quy mô nhỏ dẫn tới chi phí giao dịch cao, điều này cũng gây khó khăn và tốn phí cho các NHTM khi muốn đa dạng hóa các công cụ tài chính cho dự phòng thanh khoản. Do vậy, tìm các giải pháp phát triển thị trường tài chính nói chung, trong đó đặc biệt là thúc đẩy sự phát triển thị trường chứng khoán đã và đang tiếp tục được đặt ra cấp thiết hiện nay ở Việt Nam. Ngày 10/8/2017 đã diễn ra phiên giao dịch đầu tiên thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam, đây là tiền đề bước đầu giúp các nhà đầu tư nói chung trong đó có các NHTM có cơ hội nhằm đa dạng hóa công cụ nắm giữ để vừa bảo đảm an toàn trong kinh doanh, nhưng đó cũng giúp các NHTM nâng cao năng lực thanh khoản với chi phí hợp lý.

3.3.2.4. Tăng cường hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ ngân hàng, hoàn thiện hệ thống quản trị rủi ro thanh khoản

Kiểm tra kiểm soát nội bộ là hoạt động giữ vai trò rất quạn trọng trong kinh doanh của ngân hàng, vì nó bảo đảm rằng ngân hàng đang và sẽ chấp hành đúng các quy định trong tất cả các nghiệp vụ kinh doanh được Hội đồng thành viên và Ban lãnh đạo thông qua. Vì vậy, ngân hàng cần hoàn thiện các thủ tục kiểm soát nội bộ cần thiết đặt trong quy trình quản trị RRTK. Trong tất cả các thủ tục cần có thì các cuộc kiểm tra, đánh giá độc lập để từ đó đánh giá đúng hiệu quả của hoạt động quảnh trị là quan trọng bậc nhất. Trong đó, cần định kỳ đánh giá khả năng chịu đựng các cú sốc RRTK của ngân hàng. Các kết quả kiểm soát nội bộ cần phải báo cáo với Ban kiểm soát của ngân hàng, từ đó đề xuất các biện pháp cần thiết nhằm thiết lập các “lớp đệm” dự trữ cần thiết để bảo đảm an toàn thanh khoản của ngân hàng trong bất cứ tình huống nào. Để tăng cường hệ thống quản lý rủi ro, các

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 13/05/2023