2. Quản Trị Rủi Ro Thanh Khoản Tại Ngân Hàng Thương Mại


Sau khi kiểm soát được rủi ro, giúp ngân hàng không bị chịu tác động của rủi ro nữa song ban quản trị rủi ro vẫn luôn cần kiểm tra kiểm soát rủi ro. Để bất cứ khi nào xuất hiện các dấu hiệu gây rủi ro thì ngân hàng có thể xử lý kịp thời.

II.2. Quản trị rủi ro thanh khoản tại ngân hàng thương mại

II.2.1. Khái niệm

Quản trị rủi ro thanh khoản là việc ngân hàng sử dụng hệ thống các cơ chế quản lý, giải pháp nghiệp vụ và công cụ kỹ thuật thích hợp nhằm duy trì thường xuyên trạng thái cân bằng cung và cầu thanh khoản, xử lý kịp thời những tình huống rủi ro thanh khoản nhưng vẫn đảm bảo khả năng sinh lời cho ngân hàng 16.

Quản trị rủi ro thanh khoản được coi là một lĩnh vực quan trọng trong quản trị tài chính đối với tất cả các định chế tài chính. Các định chế tài chính trong quá trình hoạt động đều có hình thức đi vay ngắn hạn và cho vay dài hạn, do vậy cần phái có hình thức quản lý để đối phó với tình trạng thiếu thanh khoản tiềm tàng.

Để có thể quản lý thanh khoản tốt các nhà quản trị ngân hàng cần phải đảm bảo được các mục tiêu sau.

Tuân thủ quy định của NHNN và pháp luật.

Đáp ứng kịp thời các nghĩa vụ thanh toán đến hạn của toàn hệ thống với chi phí hợp lý, đảm bảo an toàn trong hoạt động.

Giảm thiểu rủi ro thanh khoản thông qua quá trình nhận biết, ước tính, theo dõi, kiểm soát rủi ro theo chuẩn mực quốc tế.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.

Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong hoạt động kinh doanh.

II.2.2. Sự cần thiết của hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản đối với hoạt động kinh doanh của NHTM

Một số biện pháp phát triển hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản tại ngân hàng VP bank - 4

Công thức CAMELS thể hiện 6 yếu tố căn bản ảnh hưởng tới hoạt động của NHTM. Quản lý tốt 6 yếu tố này sẽ có khả năng giảm thiểu những nguy cơ gây nên sự đổ vỡ ngân hàng, đó là: (1) Vốn (C - Capital); (2) Chất lượng TSC (A - Asset Quality); (3) Khả năng quản lý (M - Managment Ability); (4) Khả năng sinh lời (E - Erning); (5) Khả năng thanh khoản (Liqidity); (6) Độ nhạy cảm với thị trường (Sensitive). Trong 6 yếu tố



16 Nguyễn Đức Trung (2008) – “ Rủi ro thanh khoản của các ngân hàng hàng thương mại trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam nhiều biến động- thực trạng và giải pháp”- Tạp chí ngân hàng (14) tr 33-40.


trên đây, thì khả năng thanh khoản được xem như một yếu tố nhạy cảm nhất, có khả năng ảnh hưởng rất nhanh tới hoạt động của NHTM. Vì vậy, quản trị rủi ro thanh khoản có vai trò quan trọng đối với những hoạt động cơ bản của ngân hàng bởi những lý do sau:

Thứ nhất, giữa khả năng thanh khoản và khả năng sinh lời có sự đánh đổi. Ngân hàng càng tập trung nhiều vốn để sẵn sàng đáp ứng nhu cầu thanh khoản thì khả năng sinh lời của ngân hàng sẽ càng thấp và ngược lại, nếu ngân hàng muốn đạt nhiều lợi nhuận thì phải chịu nhiều rủi ro, mạo hiểm về thanh khoản. Trong thực tế, các NHTM có xu hướng không muốn duy trì mức vốn ngân hàng cần thiết do khoản tài sản này không sinh lợi. Thêm vào đó, với thị trường tiền tệ ngày càng phát triển, rất nhiều NHTM cho rằng không quá khó khăn để vay được một khối lượng vốn lớn tại bất kỳ thời điểm nào khi có nhu cầu, nên không cần tích trữ quá nhiều dự trữ thanh khoản dưới hình thức những tài sản dễ bán. Tuy nhiên, thực tế đã chỉ ra rằng yêu cầu về thanh khoản là vấn đề không thể xem nhẹ, một số NHTM đã phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt tiền mặt nghiêm trọng. Khả năng thanh khoản tốt nghĩa là ngân hàng có thể tính toán và dự đoán chính xác luồng vốn vào và ra khỏi ngân hàng tại bất cứ thời điểm nào, đồng nghĩa với việc ngân hàng hoàn toàn có thể chủ động trong sử dụng nguồn vốn của mình và tối đa hoá hiệu quả sử dụng vốn. Khi đó, thu nhập sẽ tăng, tạo cơ hội cho NHTM mở rộng hoạt động cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.

Thứ hai, rủi ro thanh khoản tác động lớn đến uy tín của ngân hàng. Khi ngân hàng bộc lộ mình đang gặp khó khăn trong vấn đề về thanh khoản, niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng sẽ giảm sút nghiêm trọng. Điều tất yếu là khách hàng sẽ không muốn chịu rủi ro và nhanh chóng rút toàn bộ số tiền đã gửi ở ngân hàng để chuyển sang một ngân hàng khác hoặc một hình thức đầu tư khác. Suy giảm lòng tin của khách hàng chính là con đường ngắn nhất đưa các NHTM đến với khủng hoảng thanh khoản rồi phá sản.

Thứ ba, rủi ro thanh khoản mang tính hệ thống. Các NHTM được xem như huyết mạch của nền kinh tế. Nếu hệ thống NHTM hoạt động ổn định có nghĩa là cả cơ thể kinh tế sẽ hoạt động ổn định. Tất nhiên, sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng hệ thóng NHTM lại là lĩnh vực có ảnh hưởng sâu sắc nhất, tác động tới mọi mặt hoạt động kinh tế – xã hội. Hoạt động ngân hàng là hoạt động mang tính hệ thống cao, vì vậy, khi rủi ro thanh khoản xảy ra tại một ngân hàng nào đó sẽ rất dễ dẫn đến khủng hoảng thanh khoản đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng. Chính tầm


ảnh hưởng lớn này càng đặt ra yêu cầu hệ thóng NHTM hoạt động ổn định và kinh doanh hiệu quả, kiểm soát tốt rủi ro, trong đó, kiểm soát rủi ro thanh khoản được xem là vấn đề có tính quyết định.

II.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản

II.2.3.1. Nguyên nhân phát sinh nhu cầu thanh khoản

Nguyên nhân phát sinh nhu cầu thanh khoản là một trong những nhân tố hàng đầu làm ảnh hưởng đến hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản của các NHTM. Với một nhu cầu thanh khoản phát sinh nhất định tại thời điểm nào đó, NHTM sẽ phải lựa chọn giữa các khả năng cung thanh khoản hiện có để có quyết định kịp thời, đúng đắn và hiệu quả. Ví dụ thời điểm chi trả lương và thưởng của doanh nghiệp, chi trả và thanh toán của Bảo hiểm xã hội hay Kho bạc Nhà nước, tiêu dùng trong dịp Tết nguyên Đán ;… hay doanh số cho vay vốn các thời điểm thu mua nông sản, thuỷ hải sản là những yếu tố có xu hướng lặp đi lặp lại về mức độ, thời điểm và thời gian kéo dài... thì ngân hàng phải căn cứ vào kinh nghiệm và có thể tin cậy vào kết quả dự báo này. Trong trường hợp này, các NHTM sẽ sử dụng các nguồn vốn huy động để thỏa mãn nhu cầu thanh khoản mang tính mùa vụ. Lợi ích của việc dùng các nguồn vốn huy động là NHTM có thể cơ cấu lại danh mục đầu tư và cho vay trên cơ sở nguồn vốn sẵn có vào những lúc cao điểm thời vụ. Bằng cách này, NHTM có thể sử dụng vốn để cho vay và đầu tư vào những lúc không phải mùa vụ và sẽ đem lại nhiều lợi nhuận hơn là giữ cố định một khoản tiền trong các giai đoạn có nhu cầu mùa vụ không lớn.

Tuy nhiên, bên cạnh những nguyên nhân có tính chu kỳ mùa vụ mà ngân hàng có thể dự đoán được theo kinh nghiệm thì còn rất nhiều những nguyên nhân phát sinh nhu cầu thanh khoản khác mà các nhà quản trị rủi ro cũng phải tính đến. Ví dụ khi lãi suất tăng, khi phát sinh lạm phát thì nhu cầu thanh khoản của ngân hàng sẽ tăng, do đó các NHTM cần có các biện pháp để có thể đáp ứng nhu cầu thanh khoản tăng đột ngột trong giai đoạn đó. Trong trường hợp này, các NHTM sẽ phải đi vay vốn trên thị trường liên ngân hàng, bán bớt các giấy tờ có giá có tính thanh khoản cao để đáp ứng nhu cầu thanh khoản.

II.2.3.2. Kỳ hạn của yêu cầu vốn thanh khoản của NHTM


Kỳ hạn của yêu cầu vốn thanh khoản của NHTM là khoảng thời gian mà ngân hàng phải đối mặt với tình trạng thiếu thanh khoản. Kỳ hạn của yêu cầu vốn thanh khoản cũng là yếu tố quan trọng tác động đến quyết định thanh khoản. Một điều rõ ràng cho quyết định của nhà quản lý là khi thiếu hụt thanh khoản ngắn hạn tức ngân hàng phải đối mặt với sự thiếu hụt thanh khoản trong thời gian ngắn, ngân hàng sẽ có xu hướng sử dụng các nguồn vay trên thị trường tiền tệ hoặc bán có kỳ hạn tài sản thanh khoản hơn là đi huy động để bù đắp, ngược lại với việc thiếu hụt thanh khoản dài hạn ngân hàng lại có xu hướng tăng cường nguồn vốn huy động hơn là vay nóng. Một cách tương tự đối với trường hợp dư thừa thanh khoản, trường hợp dư thừa ngắn hạn ngân hàng sẽ có xu hướng đầu tư vào các tài sản thanh khoản hoặc cho các định chế tài chính khác vay, trong trường hợp dư thừa dài hạn ngân hàng lại có kế hoạch sử dụng để giải ngân cho vay đối với nền kinh tế hoặc đầu tư vào những TSC kỳ hạn dài như giấy tờ có giá dài hạn, đầu tư bất động sản...

II.2.3.3. Khả năng tham gia các thị trường tiền tệ của NHTM

Đây là một yếu tố quyết định nguồn cung thanh khoản của NHTM do đây là kênh tạo nguồn thanh khoản tương đối nhanh chóng với chi phí tương đối hợp lý, đặc biệt là nguồn vay từ hạn mức được NHNN cấp theo các quy chuẩn và điều kiện đang tiến dần đến thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, một điều rõ ràng là các NHTM nhỏ bị hạn chế về khả năng đi vay từ các nguồn này và phải dựa vào việc bán hoặc chứng khoán hóa tài sản của mình. Nhưng như nói ở trên, các NHTM này sở hữu rất ít các khoản chứng khoán hoá tài sản của mình. Còn hạn mức đi vay từ các định chế tài chính và Ngân hàng trung ương sẽ được để dành phòng cho những trường hợp phát sinh nhu cầu thanh khoản đột xuất.

Các NHTM tại trung tâm tiền tệ và các NHTM khu vực lớn lại có điều kiện hoàn toàn ngược lại. Nếu được quản lý một cách hợp lý thì những NHTM này thường có khả năng tiếp cận được với nhiều nguồn vốn khác nhau trên các thị trường tài chính trong nước cũng như quốc tế như chứng chỉ tiền gửi lớn có khả năng chuyển nhượng, thương phiếu, chấp nhận của ngân hàng, trái phiếu, tín phiếu... Do vậy, các NHTM có quy mô lớn thường có xu hướng lựa chọn các nguồn thanh khoản huy động này để đáp ứng các nhu cầu thanh khoản phát sinh nhiều hơn so với các NHTM quy mô nhỏ.

Trong thực tế có nhiều NHTM lại thuộc khu vực trung gian giữa hai thái cực trên. Các nguồn vốn huy động bao gồm không chỉ nguồn vốn đi vay của Ngân hàng Trung ương mà cả những hình thức khác như chứng chỉ tiền gửi giá trị lớn và các khoản nợ


được đem đấu thầu. Những NHTM quy mô trung bình này thường thiếu khả năng tiếp cận thị trường tiền tệ trong nước và đa số các thị trường quốc tế khác. Ngoài ra, các NHTM này cũng có những hạn chế tương đối về vốn vay so với các NHTM quy mô lớn khác. Để đáp ứng nhu cầu thanh khoản, những NHTM loại này chủ yếu dùng đến nguồn vốn vay mang tính thời vụ hoặc bán tài sản thanh khoản.

II.2.3.4. Chiến lược kinh doanh của NHTM

Chiến lược kinh doanh của một NHTM cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến công tác quản lý thanh khoản của ngân hàng. Từ chiến lược kinh doanh, NHTM sẽ cụ thể hoá thành các quy định về quản lý thanh khoản cũng như các hoạt động khác có liên quan. Chiến lược đó chứa đựng những hướng dẫn cụ thể hoặc ngầm định về thanh khoản do đội ngũ quản trị điều hành cấp cao tại hội sở chính của NHTM đưa ra. Chiến lược kinh doanh sẽ thể hiện NHTM sẽ chấp nhận phụ thuộc đến mức nào vào những nguồn vốn không ổn định và có thể sẽ bị suy giảm mạnh trong thời kỳ kinh tế khó khăn. Nếu một NHTM không sử dụng hoặc chỉ sử dụng rất ít nguồn vốn mua về để đáp ứng nhu cầu thanh khoản (tức là hoàn toàn dựa vào những TSC linh hoạt của mình) thì NHTM đó được coi là đi theo chiến lược kinh doanh thận trọng. Tuy nhiên chiến lược này thì không dễ và trong thời gian vừa qua, tại Việt Nam chỉ có một số NHTM nhà nước và NHTM cổ phần đáp ứng được nhu cầu về thanh khoản. Số còn lại, do sức ép tăng trưởng quy mô TSC, sức ép lợi nhuận trước cổ đông nên không có TSC linh hoạt.

Chiến lược khác là những NHTM luôn tìm cách tăng nguồn vốn huy động thuộc tất cả các loại hình nguồn vốn khác nhau, chừng nào mà tổng chi phí vốn của những nguồn vốn này vẫn còn thấp hơn mức sinh lời ròng mà ngân hàng có thể sẽ thu về khi đem đầu tư chúng. Thậm chí khi tình huống quá khó khăn còn tạm thời chấp nhận lỗ để chờ vào lợi nhuận ở giai đoạn sau. Những NHTM như vậy nói chung thường phụ thuộc rất nhiều vào nguồn vốn bên ngoài và điều này thể hiện một chiến lược mạnh dạn, đôi khi đó là sự mạo hiểm, thậm chí là thể hiện thiếu kinh nghiệm trong quản trị rủi ro thanh khoản. Chính sự lựa chọn đó là câu trả lời cho cuộc đua tăng lãi suất huy động vốn VNĐ và USD trên thị trường thời gian qua cũng như hiện nay. Đồng thời, người quản trị điều hành mạnh dạn cũng phải nhận thức một điều là chính uy tín của ngân hàng mới là yếu tố quan trọng nhất quyết định khả năng ngân hàng tiếp cận được các nguồn vốn trên thị trường tiền tệ. Tuy nhiên, chiến lược kinh doanh vẫn có ảnh hưởng mạnh mẽ đến những phương pháp mà từng ngân hàng sử dụng để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của mình. Đây


luôn là một bài toán khó đối với những NHTM chưa có bề dày về quản trị điều hành NHTM nói chung và quản trị rủi ro thanh khoản nói riêng.

II.2.3.5. Chi phí của các nguồn thanh khoản

Một nhân tố nữa ảnh hưởng tới công tác quản trị thanh khoản mà các nhà quản trị điều hành NHTM luôn luôn tính đến chính là chi phí của các nguồn thanh khoản. Thông thường, nguyên lý có tính thường trực đó là NHTM sẽ lựa chọn một nguồn vốn sẵn nào đó có mức chi phí thấp nhất mà vẫn đáp ứng được đầy đủ nhu cầu thanh khoản. Nguyên tắc chi phí tối thiểu này còn phụ thuộc vào những điều kiện tiếp cận thị trường tiền tệ cũng như triết lý quản lý, chiến lược kinh doanh của bản thân ngân hàng. Trường hợp ngân hàng dự định bán một tài sản để giải quyết nhu cầu thanh khoản thì phí tổn ở đây chính là nguồn thu nhập còn lại từ tài sản mà ngân hàng đã chấp nhận từ bỏ khi quyết định bán tài sản sau khi đã cộng, trừ tất cả các khoản lỗ lãi, thuế, phí môi giới. Khi muốn sử dụng các nguồn vốn huy động thì chi phí sẽ không chỉ bao gồm các chỉ phí trả lãi mà còn cả chi phí cho dự trữ bắt buộc, chi phí xử lý, phí bảo hiểm và các chi phí liên quan khác nữa.

Bên cạnh những chi phí có thể so sánh được trực tiếp với nhau, các NHTM còn phải chú ý đến chênh lệch về chi phí tại những thời kỳ khác nhau. Ví dụ, khi gặp phải trường hợp nhu cầu vay vốn tăng lên do nguyên nhân thời vụ thì NHTM có thể giải quyết bằng các chứng chỉ tiền gửi giá trị lớn hay các hợp đồng mua lại, hoặc các công cụ phái sinh. Điểm khác nhau cơ bản giữa hai công cụ này là ở chỗ hợp đồng mua lại thường được tái ký trên cơ sở hàng ngày thậm chí đôi khi cả đối với khách hàng khác. Hơn thế, do đây là những hợp đồng bán và mua chứng khoán trên giấy tờ nên chúng đòi hỏi phải xử lý một khối lượng công việc rất lớn bằng văn bản. Do vậy, tổng phí tổn của các hợp đồng mua lại thường rất khác nhau và tăng lên tùy theo độ dài thời gian cần sử dụng vốn. Ngược lại, việc phát hành chứng chỉ tiền gửi sẽ làm NHTM phải chịu mức chi phí cố định cao (bao gồm phí bảo hiểm tiền gửi, chi phí khuyến mại...và dự trữ không được hưởng lãi) nhưng lại không có chi phí khả biến, sau khi chứng chỉ tiền gửi đã được phát hành thì sẽ không phát sinh thêm chi phí nữa. Như vậy, nếu không kể đến những yếu tố cần cân nhắc thì NHTM nên tài trợ cho nhu cầu mở rộng tín dụng kỳ hạn ngắn bằng các hợp đồng mua lại và nhu cầu mở rộng tín dụng trong thời hạn dài hơn bằng các chứng chỉ tiền gửi.


Quản trị rủi ro thanh khoản có tính thông lệ quốc tế nhưng phải vận dụng phù hợp vào đặc thù nền kinh tế Việt Nam, khi mà diễn biến kinh tế vĩ mô chưa ổn định. Quy mô và chất lượng hoạt động giữa các NHTM ở nước ta còn có khoảng cách khá xa nhau. Những rủi ro về chính sách và rủi ro về thị trường còn ở mức độ rất lớn, ảnh hưởng nhiều đến quản trị rủi ro thanh khoản của NHTM. Đây là vấn đề lớn và phức tạp trong quản trị điều hành một NHTM.

II.2.4. Quy trình quản trị rủi ro thanh khoản

II.2.4.1. Tổ chức quản trị rủi ro thanh khoản

Các NHTM cần lập ra một ban quản lý thanh khoản, mọi bộ phận trong ngân hàng đều có vai trò trong việc quản trị rủi ro thanh khoản. Dưới đây, khóa luận xin đưa ra một mô hình quản lý thanh khoản khá điển hình ở các ngân hàng thương mại lớn của Việt Nam. Một mô hình quản lý thanh khoản của các ngân hàng thương mại thường bao gồm:

Hội đồng quản trị:

o Phê duyệt chiến lược và các chính sách quan trọng liên quan đến quản lý rủi ro thanh khoản;

o Giám sát tình hình thanh khoản và cơ cấu rủi ro của ngân hàng một cách định kỳ, dễ hiểu và đánh giá rủi ro thanh khoản của ngân hàng.

Uỷ ban quản lý rủi ro:

o Đảm bảo hoạt động của ngân hàng phù hợp với chiến lược thanh khoản đã đặt ra;

o Đảm bảo các chính sách và thủ tục cần thiết cho quản lý rủi ro thanh khoản được thực hiện;

o Quản lý tình hình thanh khoản và cơ cấu rủi ro của ngân hàng một cách định kỳ, dễ hiểu và đánh giá rủi ro thanh khoản của ngân hàng;

o Giám sát hoạt động của Uỷ ban quản lý tài sản/công nợ và việc xử lý các vấn đề quan trọng của Uỷ ban này.

Uỷ ban quản lý tài sản/công nợ (ALCO). ALCO có trách nhiệm quản lý khả năng thanh khoản nói chung bao gồm các công việc chính sau:

o Xây dựng và thực hiện các thủ tục quy trình quản lý khả năng thanh khoản, đảm bảo rằng các thủ tục quy trình luôn được cập nhật để đảm bảo tính đầy đủ, thận trọng;


o Xây dựng và xem xét các hạn mức đảm bảo khả năng thanh toán đầy đủ các trường hợp vượt hạn mức được xem xét và phê duyệt;

o Quyết định cơ cấu bảng cân đối kế toán - các tài sản và công nợ theo tính thanh khoản và theo thời gian đáo hạn.

o Lập các báo cáo cho Ban giám đốc, Uỷ ban quản lý rủi ro về các hoạt động thanh khoản và cơ cấu rủi ro của ngân hàng một cách thường xuyên;

o Lập kế hoạch dự phòng chỉ rõ các hoạt động quản lý trong trường hợp có khủng hoảng và khả năng thanh khoản.

Ban giám đốc chi nhánh: trực tiếp chỉ đạo thực hiện quản lý rủi ro thanh khoản tại các đơn vị mình quản lý.

II.2.4.2. Nhận biết rủi ro thanh khoản

Nhận biết rủi ro thanh khoản là một trong những khâu quan trọng trong quá trình quản trị rủi ro thanh khoản của ngân hàng thương mại. Để nhận biết rủi ro thanh khoản, các nhà quản trị rủi ro trong ngân hàng phải chú ý những điểm sau:

Yếu tố đầu tiên để nhận biết rủi ro thanh khoản đó là tình hình biến động của nền kinh tế. Đây là nhân tố dễ dàng có ảnh hưởng đến tính thanh khoản của NHTM. Nếu nền kinh tế phát triển ổn định và lành mạnh, các doanh nghiệp và tổ chức vay tiền của ngân hàng sẽ dễ dàng trả được nợ. Do đó, ngân hàng sẽ quản lý tốt được tỷ lệ nợ xấu của mình. Thêm vào đó, nền kinh tế phát triển lành mạnh khiến cho người dân cũng trở nên tin tưởng hơn vào hệ thống ngân hàng và điều tất yếu là lượng tiền gửi vào ngân hàng sẽ tăng lên. Ngược lại, khi nền kinh tế có các dấu hiệu bất ổn, suy thoái, lạm phát, ngay lập tức người dân sẽ rút bớt lượng tiền gửi của mình về để đảm bảo an toàn. Lượng nợ xấu, nợ khó đòi của ngân hàng cũng tăng lên… Vì vậy, các nhà quản trị rủi ro trong ngân hàng cần luôn theo dõi những biến động của nền kinh tế không chỉ trong nước, trong khu vực mà phải trên toàn thế giới. Một ví dụ điển hình về tác động của nền kinh tế đến tình hình thanh khoản trong thời gian qua đó là cuộc khủng hoảng kinh tế ở Mỹ sau đó đã lan rộng ra toàn thế giới và các ngân hàng của Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nặng nề và có nhiều lúc tính thanh khoản của một số ngân hàng ở nước ta đã bị đe dọa nghiêm trọng.

Thứ hai, các nhà quản trị rủi ro trong ngân hàng cần liên tục theo dõi các chính sách quyết định của NHNN. Đây là một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ và trực tiếp nhất đến khả năng thanh khoản của ngân hàng. Rất nhiều các quyết định chính sách của NHNN có thể ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của NHTM. Ví dụ như khi

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 04/09/2023