179
- Phải làm cho cộng đồng xóa bỏ định kiến của xã hội luôn cho rằng vào trường tư thục là kém chất lượng, không có cơ hội tìm việc làm. Điều này được
trả
lời minh chứng cụ
thể
bằng việc rất nhiều trường tư
thục, sinh viên tốt
nghiệp ra làm được việc, không qua đào tạo như Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội, Đại học Thăng Long, Đại học Dân lập Hải Phòng, Đại học Duy Tân, Đại học Quốc tế miền Đông...
- Có tiếng nói quyết liệt trong việc mở ồ ạt các trường ĐH-CĐ hiện nay chủ yếu là các trường công lập, đặc biệt là cho nâng cấp các trường cao đẳng lên đại học khi chưa đủ điều kiện, thể hiện là việc sinh viên vào các trường dân lập, tư thục luôn giảm xuống, theo số liệu mới tỉ lệ này chỉ đạt khoảng 12,7%. Bên cạnh đó, tốc độ phát triển của các trường cũng chỉ bằng 1/3 các trường công lập. Và chừng ấy năm các trường phát triển lay lắt, ai chịu trách nhiệm, nếu không có gì thay đổi thì tỉ lệ 12,7% đó có thể thấp hơn ở những năm tiếp theo. Qua số liệu thống kê chính thức cho thấy: Trong 10 năm các trường ĐH-CĐNCL tăng thêm 59 trường, vẫn trong ngần ấy thời gian số lượng các trường ĐH-CĐ công lập đã là 158 trường. Như vậy mỗi 1 trường ngoài công lập được mở ra thì có khoảng 2,68 trường công lập ra đời. "Thực tế, hệ thống trường công lập tăng gấp gần 3 lần so với các trường NCL mà không ai đề cập tới. Trong khi mỗi một trường công lập ra đời phải có tiền từ ngân sách vào, các trường NCL không những không được hưởng ngân sách nhà nước mà còn phải đóng thuế, thuế đó góp vào ngân sách nhà nước và rót ngược lại cho các trường công lập. Điều đó cho thấy bức tranh hiện nay các trường công lập tồn tại được là trong đó có một phần tiền thuế từ các trường ngoài công lập”.
Có thể bạn quan tâm!
- Quản lý nhà nước đối với khu vực giáo dục đại học cao đẳng tư thục ở Việt Nam - 21
- Hoàn Thiện Quản Lý Nhà Nước Về Công Tác Đao Viên Và Công Tác Tài Chính
- Đối Các Ubnd Các Tỉnh, Thành Phố, Các Bộ Ngành Có Liên Quan
- Kiến Nghị Đối Với Các Trường Đại Học Cao Đẳng Tư Thục
- World Bank (1993), "việt Nam Quá Độ Sáng Kinh Tế Thị Trường". Vụ Khu Vực 1, 9/1993, Hà Nội.
- Kết Quả Xử Lý Ý Kiến Của Các Bảng Câu Hỏi Khảo Sát
Xem toàn bộ 238 trang tài liệu này.
- Hiệp hội cần có tiếng nói nhằm bảo đảm sự bình đẳng, công bằng vì một học sinh có trình độ như nhau có quyền lựa chọn các trường công hay trường tư để học. Khi người học học ở trường tư cũng phải được sự hỗ trợ tối thiểu như trường công, còn khi nào học chất lượng cao lúc đó nhà nước phải lo. Hiện nay chưa có sự công bằng đó, cho nên người học lại đổ xô vào học công lập.
- Hiệp hội cần tiếp tục phối hợp với các cơ quan và các trường thành viên để đẩy mạnh công tác nghiên cứu, tìm kiếm mô hình hoạt động phù hợp với sự phát triển của Việt Nam, phù hợp với đặc thù vùng miền và quan trọng nhất là phải bắt kịp với xu hướng phát triển giáo dục thế giới.
- Có ý kiến với các trường tư thục về những bất cập trong các trường tư thục, thúc đẩy các trường hoạt động có chất lượng và đó sẽ là một động lực để thúc đẩy quá trình cạnh tranh giữa các trường với nhau. Người học dần dần sẽ lựa chọn những trường có uy tín để theo học vì khi ra trường chắc chắn sẽ xin việc
làm dễ hơn. Vì hiện nay người học đang có quyền lựa chọn cho mình những
trường để theo học với chất lượng cung ứng dịch vụ tốt nhất.
180
3.2.5.4. Vai trò của doanh nghiệp
Các nhà quản lý giáo dục đào tạo cần coi trọng mối quan hệ giữa đào tạo và sản xuất là không thể tách rời: Nền kinh tế phát triển, chính trị xã hội ổn định, sự nghiệp giáo dục - đào tạo đã có những tiến bộ đáng kể, đã hình thành thị trường sức lao động, thị trường việc làm với quy mô ngày càng lớn. Thực hiện nguyên lý đào tạo với sản xuất, quá trình đào tạo phải gắn với cơ sở sản xuất để tận dụng trang thiết bị, công nghệ sẵn có. Gắn đào tạo với việc làm, từ thị trường việc làm hình thành thị trường sức lao động và qua đó mới xác định thị trường đào tạo nhân lực. Mối liên hệ giữa doanh nghiệp với giáo dục đào tạo là:
- Đào tạo cung cấp nguồn nhân lực phục vụ sản xuất, ngược lại yêu cầu sản xuất cũng phải có nghĩa vụ với đào tạo. Đào tạo gắn với doanh nghiệp đã trở thành một nguyên tắc để thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành.
- Mối quan hệ giữa đào tạo và sản xuất là mối quan hệ mật thiết, chịu tác động lẫn nhau không thể tách rời.
- Đào tạo phải luôn tiếp cận với sản xuất, cơ sở đào tạo và doanh nghiệp cũng phải tham gia vào quá trình đào tạo. Xu hướng hiện nay là các doanh nghiệp lớn nên thành lập các trường đại học tư thục, hoặc các trường nghề để cung ứng lao động cho doanh nghiệp và cho ngoài xã hội là hết sức phù hợp.
- Việc tiếp cận với sản xuất còn giúp các nhà quản lý giáo dục đào tạo điều chỉnh việc xây dựng mục tiêu, nội dung chương trình cho phù hợp với yêu cầu đổi mới của công nghệ sản xuất, tạo sự cân đối giữa nhu cầu lao động của xã hội và đào tạo, tránh lãng phí một lượng lao động đã qua đào tạo mà không được sử dụng hoặc không sử dụng phù hợp như hiện nay.
3.2.5.5. Vai trò của xã hội, của người học
Để nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước với hệ thống các trường đại học cao đẳng tư thục, vai trò của xã hội, của người dân, người học cũng góp phần không nhỏ, được thể hiện qua các mặt:
Mỗi trường đại học cao đẳng có hàng trăm giảng viên, hàng nghìn sinh viên nhưng lực lượng đông đảo này chưa tham gia vào việc kiểm tra các trường đại học tuân thủ các quy định về đào tạo, quản lý trường đại học đặc biệt là những trường đại học tư thục. Việc sinh viên tham gia quản lý nhà trường là điều tất yếu vì nó liên quan đến quyền lợi thiết thực của mỗi sinh viên. Họ có thể tham gia giám sát chất lượng chính tại trường họ học, bởi Bộ đã có quy chế “3 công khai”: trường cam kết chất lượng giảng dạy, tên tuổi giáo viên, cở sở vật chất, giáo trình, thu chi tài chính…
Vì lợi ích của mình và xã hội trước hết đươc sinh viên phản ánh ngay
ở trường những yếu kém, không đạt chuẩn của quá trình đào tạo, trong điều
181
lệ trường đại học nhà trường phải trả lời những chuyện đó. Cần phải xác định
là không nên đặt vấn đề
chỉ có nhà nước quản lý trường đại học mà tự
mỗi
trường phải quản lý lấy, chính giáo viên trong trường phải tham gia quản lý nhà
trường, chính sinh viên trong trường là chủ thể. Một xã hội phát triển tốt
thì mọi người phải tham gia làm chủ chính công việc hàng ngày ở nơi mình làm việc. Do vậy để giúp hệ thống các trường ĐH-CĐTT vận hành theo đúng quy luật của nó thì cần phải có sự tham gia của toàn xã hội trong vai trò quản lý nhà nước đối với các trường tư thục
Trong bối cảnh giáo dục đại học Việt Nam sau khi gia nhập WTO, với việc hình thành và phát triển chuẩn thị trường giáo dục đại học, chúng ta cần đặc biệt coi trọng và phát huy sự tham dự của xã hội trong một loạt vấn đề phức tap. Trước hết, đối với một lĩnh vực mới và nhạy cảm là chuẩn thị trường giáo dục đại học, vai trò tư vấn, phản biện xã hội và giám sát của xã hội là yêu cầu bắt buộc để khắc phục tính quan liêu của chính quyền và sự thiển cận của thị trường. Việc phát triển giáo dục đại học tư thục, bên cạnh môi trường pháp lý minh bạch do nhà nước đem lại, cồng đồng xã hội có thể góp phần tạo dựng môi trường văn hóa - xã hội thuận lợi. Trên cơ sở đó đề cao truyền thống dân tộc và bản sắc văn hóa để người dân có thái độ và hành vi tích cực trong việc lựa chọn trường đại học tư thục. cần chú ý rằng, việc tự do hóa thương mại dịch vụ giáo dục sẽ kéo vào Việt Nam có nhiều loại văn bằng khác nhau; sự nhạy bén và giám sát khắp nơi của xã hội sẽ giúp sớm phát hiện sự gian lận thương mại và gian trá chất lượng, góp phần bảo vệ quyền lợi người học, bảo đảm cạnh tranh lành mạnh và công bằng.
3.3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC HIỆN THÀNH CÔNG CÁC GIẢI PHÁP
3.3.1. Kiến nghị đối với Quốc hội và Chính phủ
Để quản lý khu vực GDĐHCĐTT ngày càng tốt hơn, chặt chẽ và có hiệu quả hơn nhà nước mà cụ thể là Chính phủ cần quan tâm nhiều hơn nữa đối với khu vực này coi GDĐH-CĐ khu vực tư thục là một thực thể không thể thiếu trong tiến trình hội nhập quốc tế ở nước ta. Để đạt các mục tiêu này, luận án khuyến nghị các nguyên tắc cơ bản sau đây cần được tôn trọng và củng cố trong việc hoàn thiện công tác QLNN đối với khu vực GDĐHCĐTT như sau:
+ Vai trò của Nhà nước phải rõ ràng về mặt đường lối chính sách và cần được cụ thể hóa bằng các tiêu chuẩn giám sát, điều chỉnh và công nhận cũng như khuyến khích các trường tư thục hoạt động, phải xây dựng văn bản pháp lý đầy đủ và hoàn chỉnh nhằm tạo điều kiện cho các trường tư thục cũng bình đẳng như các trường công lập.
182
+ Nhà nước cần cung cấp một môi trường thuận lợi (luật pháp và các điều kiện khác) để cho phép các nhà đầu tư, đầu tư vào khu vực tư trong GDĐH-CĐ.
+ Nhà nước cung cấp sự chỉ đạo để tăng cường năng lực cho nhà trường thực thi quyền tự chủ, tự quyết và trách nhiệm bằng cách tạo ra một tổ chức quốc gia để cung cấp sự tư vấn cho bản thân trường ngoài công lập nói chung và các trường tư thục nói riêng.
+ Đảm bảo tính lâu dài và sự nhất quán giữa việc công bố chính sách với việc thực thi chính sách. Thiết lập sự hợp tác chặt chẽ giữa cơ quan duợc giao
trách nhiệm chuyên trách quản
lý nhà nước
về GDĐH-CĐ với
các bộ ngành,
UBND các tỉnh, thành phố và các cơ quan nhà nước khác trong quá trình tổ chức thự hiện chính sách.
+ Thay vì chỉ tập trung vào khâu tổ chức thực hiện chính sách như hiện nay, cần mở rộng các cuộc vận động chính sách ngay từ khi bắt đầu của một chu trình chính sách mới. Cần triển khai vận động như thông qua các cuộc họp, tập huấn, hội thảo, hoặc bắt dầu từ các nghiên cứu, khảo sát, đánh giá dự án, các bài học kinh nghiệm, thông tin từ môi truờng, thông tin đại chúng …. Đồng thời
cần
mời các nhà hoạch
đinh chính sách tham gia các cuộc hội thảo chuyên đề,
lấy ý kiến đóng góp trực tiếp của các giáo sư, cán bộ giảng dạy, cán bộ quản lý truờng đại học, cao đẳng đặc biệt là các trường tư thục, các nhà chuyên môn trong các hội thảo tham vấn, đóng góp ý kiến về chính sách thực thi pháp luật.
+ Tổ chức tuyên truyền các chế độ, chính sách về phát triển GDĐHCĐTT và coi đây là công việc hết sức quan trọng trong phát tri ển s ự nghi ệp giáo
dục nước nhà.
Nhằm làm cho tất
cả các sinh viên, giảng viên, phụ huynh,
nguời sử dụng lao động và những nguời có liên quan khác phải hiểu đuợc trách nhiệm và quyền lợi của họ khi tham gia vào môi truờng GDĐHCĐTT.
+ Hội nhập quốc tế cùng với việc thực thi các cam kết về GATS trong giáo dục đang đặt giáo dục đại học, cao đẳng tư thục Việt Nam là cần sớm xây dựng hệ thống chính sách đồng bộ, mềm dẻo và linh hoạt, tạo điều kiện để giáo dục đại học tận dụng được cơ hội, vượt qua thách thức, tối đa hóa lợi ích và giảm thiểu rủi ro trên con đường phát triển theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa. Hoàn chỉnh môi trường pháp lý hiện nay của giáo dục Việt Nam nói chung, giáo dục đại học cao đẳng tư thục nói riêng, là điều kiện cơ bản để triển khai có hiệu quả và hiệu lực trong quản lý nhà nước.
+ Một trong những đặc trưng cơ bản của tiến trình đổi mới này là sự ra đời của các nhà cung ứng mới trong giáo dục đại học: đó là các tổ chức, cá nhân trong nước đứng ra thành lập các cơ sở giáo dục tư thục; các tổ chức, cá nhân ngoài nước đứng ra thành lập các cơ sở giáo dục có yếu tố nước ngoài. Một mô hình
183
cung ứng giáo dục mới đã hình thành, với ba đặc trưng chính là: Nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo nhưng không còn giữ độc quyền trong cung ứng giáo dục; các tổ chức, cá nhân cùng tham gia cung ứng giáo dục; tuy nhiên cơ chế cạnh tranh chưa hình thành. Mô hình này thường được gọi là mô hình gần như độc quyền hay chuẩn độc quyền (quasi-monopoly). Sau khi gia nhập WTO, một mô hình cung ứng giáo dục mới sẽ hình thành. Đó là vì Việt Nam có cam kết khá sâu và rộng về thực thi Hiệp định GATS trong lĩnh vực giáo dục. Theo đó, ta mở cửa cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được tiếp cận thị trường giáo dục đại học trong các lĩnh vực kỹ thuật, khoa học tự nhiên và công nghệ, quản trị kinh doanh và khoa học kinh doanh, kinh tế, kế toán, ngôn ngữ và luật quốc tế. Sự hiện diện thương mại của các cơ sở giáo dục nước ngoài về nguyên tắc là không hạn chế đối với các cơ sở liên kết kể từ ngày Việt Nam gia nhập WTO, và cũng không hạn chế đối với các cơ sở 100% vốn nước ngoài kể từ sau ngày 1/1/2009. Trong khi đó, thị trường giáo dục đại học Việt Nam được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá là một thị trường giàu tiềm năng do hệ thống các trường cao đẳng, đại học Việt Nam hiện nay, cũng như trong trung hạn, hoàn toàn không có đủ khả năng đáp ứng yêu cầu đại chúng hoá và nâng cao chất lượng theo tỉnh thần Nghị Quyết 14. Vì vậy với việc thực thi các cam kết về GATS trong giáo dục, bức tranh giáo dục đại học Việt Nam sẽ có biến động mạnh mẽ với sự ra đời của khá nhiều cơ sở giáo dục nước ngoài. Cục diện cạnh tranh sẽ hình thành và phát triển do người học được nhiều cơ hội hơn trong việc lựa chọn trường học.
+ Với việc thực thi các cam kết về GATS trong giáo dục, giáo dục đại học cao đẳng tư thục ở nước ta trong thời gian tới sẽ chuyển từ mô hình cung ứng chuẩn độc quyền sang chuẩn thị trường. Bước chuyển của mô hình cung ứng đó đòi hỏi có bước chuyển tương ứng của mô hình quản lý từ kiểu nặng giữa sang kiểu nặng giữa và dưới. Đặc trưng cơ bản của sự phân chia thẩm quyền theo kiểu này là Nhà nước sẽ chỉ tập trung vào quản lý vĩ mô, chuyển vai trò từ kiểm soát sang giám sát; nhà trường tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong công tác tổ chức, nhân sự và tài chính; khoa/bộ môn, mà trực tiếp là đội ngũ giảng viên, có tiếng nói quyết định trong công tác chuyên môn.
+ Trong bức tranh chung của giáo dục đại học thế giới, giáo dục công lập vẫn đóng vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, do xu thế thương mại hoá giáo dục đại học và việc phát triển giáo dục xuyên biên giới trong tiến trình hội nhập, bức tranh giáo dục đại học thế giới đang có những biến động. Trong phần cam kết chung của Việt Nam về GATS, có nói rõ là chưa cam kết thực hiện quy tắc đối xử quốc gia đối với sự hiện diện thương mại của các cơ sở giáo dục nước ngoài. Tuy nhiên, để nâng cao năng lực cạnh tranh của toàn hệ thống giáo dục đại học nước ta trong quá trình hội nhập, rất cần thực hiện ngay “quy tắc đối xử quốc gia trong
184
nước”, nghĩa là giảm thiểu sự phân biệt đối xử giữa trường công lập và trường tư thục trong nước. Luật Giáo dục đại học cần tạo nên một bước tiến mới trong giáo dục đại học Việt Nam nếu có những quy định nhằm hạn chế dần sự phân biệt đối xử giữa công lập và tư thục trong nước. Điều đó cũng là một bước chuẩn bị tích cực để sau này chúng ta tiến tới cam kết thực hiện quy tắc đối xử quốc gia trong việc thực thi GATS.
Chính sách về cơ cấu của hệ thống GDĐH-CĐ có cả khu vực công và tư bước đầu đã có tác dụng. Song khu vực tư chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó chiếm một tỷ trọng thích hợp. Phấn đấu trong thời gian 05 năm tới ít nhất các trường ngoài công lập trong GDĐH-CĐ phải đảm bảo được 40% quy mô tuyển sinh của từng cấp bậc giáo dục đại học và cao đẳng như theo tinh thần Nghị quyết 05 của Bộ chínhh trị.
Các biện pháp:
+ Thể chế hoá chủ trương thành pháp luật, cụ thể hóa các giải pháp theo tinh thần Nghị quyết 05. Việc xây dựng sửa đổi Luật giáo dục tới đây cần phải có chương hoặc các điều khoản về khu vực tư nhân một cách rõ ràng nhằm không ngừng tăng tỷ lệ sinh viêc của khu vực tư nhân. Tiếp đó là cụ thể hóa tất cả các quy chế về ĐH-CĐ tư thục. Chỉ có thể chế hóa bằng luật pháp về bảo đảm các quyền sở hữu, quyền thừa kế hợp pháp, bảo đảm lợi ích của các chủ đầu tư vào trường tư thục thì họ mới yên tâm đầu tư.
+ Bảo đảm sự bình đẳng giữa khu vực công và tư trong GDĐH-CĐ bằng cách nới rộng tính tự chủ cho các trường công lập (nhất là vấn đề học phí) và có chính sách trợ giúp về kỹ thuật và tài chính đối với những trường tư thục nào là thích hợp.
+ Hạn chế
sự mở
rộng đào tạo
ở trường công lập
ở những vùng, những
ngành nghề đào tạo nào mà bộ phận ngoài công lập đặc biệt là tư thục đủ khả năng thực hiện với số lượng đầy đủ và chất lượng đảm bảo.
+ Có biện pháp khuyến khích các trường tư thục liết kết đào tạo cho các doanh nghiệp đặc biệt là các tổng công ty, các tập đoàn lớn nhằm đảm bảo nhu cầu nguồn nhân lực cho khu vực này.
Khuyến khích các tổ chức tư nhân tham gia làm cho giáo dục có chất lượng cao đặc biệt là giáo dục mà ở khu vực công lập không cung cấp đầy đủ và giáo dục theo mục đích riêng biệt (ví dụ đào tạo cho công nghệ chuyên dụng hoặc mới của các hãng).
+ Khuyến khích các doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ về GD-ĐT đối với
185
sự phát triển của nhân viên và chất lượng cuộc sống của họ thông qua chế độ thuế.
+ Xem xét lại các nguyên tắc và quy định để tạo thuận lợi cho tổ chức tư nhân ở trong nước và quốc tế, tham gia tích cực hơn vào việc cung cấp cho giáo dục.
+ Nhà nước có thể thực hiện một số chế độ hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp đối với khu vực các trường đại học cao đẳng tư thục. Ví dụ tiếp tục miễn giảm
thuế, tiếp tục cho phép giáo viên trường công tham gia giảng dạy ở trường tư
trong một thời gian nữa. Ngoài ra có thể cho phép các trường tư thục thuê các cơ sở giảng dạy của trường công lập dài hạn, cho phép các trường tư được tham gia và hưởng tài trợ NSNN của các chương trình đặc biệt như chương trình khuyến khích nâng cao chất lượng, chương trình về nội dung, giáo trình, chương trình hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo ... và có thể hình thành quĩ cho vay với lãi suất ưu đãi cho khu vực ngoài công lập.
+ Khuyến khích các trường tư thục tham gia vào các trường trình hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo, tài trợ các đề tài các dự án khoa học công nghệ.
Để đảm bảo tính công bằng cho phép học sinh, sinh viên khu vực ngoài công lập được tham gia và hưởng chính sách hỗ trợ tài chính của Nhà nước như học bổng, chương trình cho sinh viên vay tiền (hiện nay nhà nước đã có chế độ cho HS-SV vay vốn phục vụ nhu cầu học tập). Tuy đã hình thành quỹ tín dụng giành cho sinh viên nhưng cần đẩy mạnh hơn nữa ở khu vực tư thục.
Nâng dần mức học phí của khu vực công lập trong GDĐH-CĐ nhằm tăng tỷ lệ thu hồi chi phí trong giáo dục. Việc tăng dần học phí của khu vực công lập cũng là một giải pháp giảm được chi phí công (NSNN) bình quân trên một học sinh, sinh viên và nó có tác dụng tương tự như việc mở rộng khu vực ngoài công lập đặc biệt là tư thục. Đồng thời việc tăng học phí của khu vực công lập sẽ giảm được sự chênh lệch quá xa về mức học phí giữa khu vực công và tư.
Đi đôi với chính sách học phí phải thực thi chế độ trợ giúp cho học sinh, sinh viên nghèo không có khả năng theo học do không có khả năng trả học phí và học sinh, sinh viên là đối tượng của chính sách xã hội khác.
+ Cuối cùng là Bộ GD&ĐT cần thành lập cơ quan chuyên trách để có những quyết sách kịp thời nhằm điều chỉnh hoạt động của khu vực này theo theo đúng mục tiêu của nhà nước.
3.3.2. Kiến nghị đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo
Công tác kiểm định chất lượng đã được Bộ GD-ĐT ban hành theo Quyết
định 66/2007/QĐBGDĐT về tiêu chuẩn đánh giá và Quyết định 76/2007/QĐ-
186
BGDĐT về kiểm định chất lượng tuy nhiên cần được cụ thể hóa các vần đề sau:
+ Xây dựng bộ tiêu chuẩn tối thiểu về các chương trình đào tạo đại học và cao đẳng ở cấp quốc gia. Các tiêu chuẩn này liên quan tới sứ mệnh và tầm nhìn, cơ sở vật chất thiết bị, đội ngũ cán bộ giảng dạy, chương trình giảng dạy và học tập, cơ chế tự đảm bảo chất lượng và cơ chế kiểm định công nhận các trường ngoài công lập đặc biệt là các trường tư thục.
+ Việc củng cố và nâng cao chất lượng GDĐH-CĐ trước hết phải là trách nhiệm của các trường tư thục.
+ Cả cơ sở giáo dục công và tư đều được coi là đối tượng để kiểm định bên trong và bên ngoài, nhưng bước một do có khó khăn về thực tiễn các cơ sở tư thục phải được coi là đối tượng ưu tiên trong bước này.
+ Thành lập hai Hội đồng tư vấn về chất lượng giáo dục, một cho đại học và một cho cao đẳng. Các nhiệm vụ sau đây có thể phải có trong phạm vị đánh giá của Hội đồng:
a. Chất lượng giảng dạy và nghiên cứu của các cơ sở giáo dục.
b. Chất lượng của các chương trình đào tạo, các tài liệu, cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và đội ngũ giáo viên.
c. Việc xây dựng mối quan hệ giữa các trường tư thục với người sử dụng nhân lực.
d. Tuyển sinh, tổ chức và quy trình đánh giá phân loại đầu vào và quá trình học tập.
e. Sự thích hợp của hệ thống kiểm tra chất lượng bên trong.
Để hỗ
trợ
sự nỗ
lực đảm bảo chất lượng bên trong của các trường, Bộ
GD&ĐT cần tăng cường hướng dẫn và đào tạo cán bộ cho các trường về quy trình tự đánh giá nâng cao chất lượng của nhà trường và cần có một cơ chế công bố các thông tin về đánh giá vừa để phổ biến kinh nghiệp vừa giúp cho người học lựa chọn trường tư để nhập học.
+ Tăng cường trách nhiệm của các trường tư.
Cơ chế trách nhiệm trong GDĐH-CĐ tư thục đang trong quá trình xem xét, xây dựng và hoàn thiện. Cơ chế trách nhiệm cần phải được tăng cường như là một bộ phận hữu cơ của những quyền tự chủ của trường ngoài công lập đã được nhà nước cho phép và phát triển hơn trong tương lai. Trách nhiệm của trường tư thục phải được nhà nước giám sát chặt chẽ ở các điểm sau:
Một là Giám sát chặt chẽ về thực hiện sứ mệnh, mục tiêu. Mục đích của đề án thành lập trường đã được nhà nước xem xét và cấp giấy phép hoạt động. Quản lý chặt chẽ việc cho phép thành lập các trường ĐH-CĐ mới.