Giáo Dục Giá Trị Sống - Kỹ Năng Sống Ở Trường Trung Học Phổ Thông

hiệu quả, góp phần hình thành, phát triển toàn diện nhân cách học sinh THPT theo mục tiêu, yêu cầu của bậc học.

Mục tiêu quản lý hoạt động giáo dục giá trị sống - kỹ năng sống cho học sinh trường THPTTriệu Quang Phục là nhằm bảo đảm cho hoạt động giáo dục giá trị sống - kỹ năng sốngvận hành một cách đồng bộ, đúng kế hoạch, hiệu quả để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Thông qua quá trình quản lý giúp các lực lượng giáo dục và được giáo dục có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của công tác giáo dục giá trị sống - kỹ năng sống cho học sinh trong xã hội hiện nay, có thái độ đúng và tự điều chỉnh hành vi của bản thân, biết ứng phó trước những tình huống căng thẳng trong quá trình giao tiếp, tích cực tham gia vào các hoạt động tập thể, hoạt động xã hội trong quản lý giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.

Chủ thể quản lý hoạt động giáo dục giá trị sống - kỹ năng sống cho học sinh trường THPTTriệu Quang Phục bao gồm: Ban giám hiệu nhà trường, đội ngũ cán bộ, giáo viên, tổ chức Đảng, Đoàn và các tổ chức xã hội là chủ thể hướng dẫn, điều hành hoạt động giáo dục, quản lý hoạt động giáo dục giá trị sống - kỹ năng sống cho học sinh.

Đối tượng quản lý l à học sinh, tập thể học sinh, chịu sự tác động, điều khiển của chủ thể quản lý trong hoạt động giáo dục giá trị sống - kỹ năng sống. Học sinh và tập thể học sinh vừa là khách thể quản lý, vừa là chủ thể tự quản lý, tự tổ chức thực hiện việc giáo dục giá trị sống - kỹ năng sống theo mục tiêu, yêu cầu của bậc học.

Nội dung quản lý bao gồm: Quản lý mục tiêu, nội dung,hình thức, phương pháp, kết quả và các điều kiện phục vụ hoạt động giáo dục GTS-KNS phù hợp với đối tượng học sinh THPT.

Phương pháp quản lý quá trình giáo dục giá trị sống - kỹ năng sống cho học sinh

Phương pháp quản lý hành chính:là hệ thống những tác động trực tiếp và gián tiếp của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý dựa trên quan hệ tổ chức và quyền lực hành chính, nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nội dung, kế hoạch quản lý. Phương pháp tổ chức hành chính thường thể hiện qua các nghị quyết của Hội đồng giáo dục nhà trường, hội nghị cán bộ giáo viên, nghị quyết của chi bộ Đảng, Đoàn thanh niên, các quyết định của Hiệu trưởng, các quy định, quy chế, nội quy của nhà trường mang tính chất bắt buộc yêu cầu cán bộ giáo viên và học sinh

phải thực hiện. Đây là phương pháp cơ bản để xây dựng nền nếp, duy trì kỷ luật trong Nhà trường.

Phương pháp giáo dục - tâm lý: là hệ thống những tác động của chủ thể quản lý lên nhận thức, trí tuệ, tình cảm, ý thức và nhân cách của đối tượng quản lý, nhằm thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nội dung, kế hoạch quản lý. Phương pháp này thể hiện tính nhân văn trong hoạt động quản lý. Nhiệm vụ của phương pháp này là động viên tinh thần chủ động, tích cực, tự giác và tạo ra bầu không khí cởi mở, tin cậy, giúp đỡ lẫn nhau hoàn thành nhiệm vụ. Phương pháp tâm lý - xã hội bao gồm các phương pháp: giáo dục, thuyết phục, động viên, tạo dư luận xã hội… Phương pháp này thể hiện tính dân chủ trong hoạt động quản lý, phát huy quyền làm chủ tập thể và mọi tiềm năng của mỗi thành viên trong tổ chức. Vận dụng thành công phương pháp này sẽ mang lại hiệu quả cao trong hoạt động của tổ chức và hoạt động giáo dục giá trị sống - kỹ năng sống cho học sinh. Tuy nhiên, hiệu quả của phương pháp này còn phụ thuộc vào nghệ thuật của người quản lý.

Phương pháp kích thích:là hệ thống những tác động của chủ thể quản lý đến đối tượng quản lý thông qua lợi ích kinh tế (vật chất) và tinh thần, nhằm tích cực hóa hoạt động của họ trong thực hiện mục tiêu, nội dung, kế hoạch quản lý. Kích thích hoạt động bằng lợi ích kinh tế có nhiều ý nghĩa thiết thực: phát huy tính sáng tạo, độc lập, tự giác của mỗi người trong công việc. Qua đó, phẩm chất, năng lực và kết quả lao động của mọi người được tập thể thừa nhận và đánh giá. Đó là cơ sở cho việc đánh giá thi đua, khen thưởng. Phương pháp kinh tế thường được kết hợp với phương pháp tổ chức - hành chính. Hai phương pháp này luôn bổ sung và thúc đẩy lẫn nhau. Ngày nay, trong bối cảnh cơ chế thị trường, việc vận dụng phương pháp kinh tế phải thận trọng để một mặt khuyến khích tính tích cực lao động của cán bộ giáo viên, mặt khác vẫn đảm bảo uy tín sư phạm của giáo viên và tập thể Nhà trường.

Phương pháp nêu gương:là phương pháp giáo dục, trong đó nêu lên những gương điển hình, những mẫu mực cụ thể, sống động của cá nhân hoặc tập thể hoặc bằng hành động của chính bản thân mình như là một mẫu mực để kích thích người dược giáo dục cảm phục, noi theo và làm theo những tấm gương đó nhằm đạt được mục đích đã đề ra. Phương pháp này phù hợp với tâm lý của trẻ là tính hay bắt chước. Tuy nhiên, bắt chước không phải là sao chép mù quáng, máy móc; mà thông

qua bắt chước vẫn phải có những hành động mới mẻ, đúng đắn, phù hợp với phương hướng chung của lý tưởng, lại vừa có hoạt động độc đáo, gần gũi với tư tưởng chủ đạo của tấm gương mà trẻ bắt chước.‌

Phương pháp phát huy sức mạnh tổng hợp: quản lý có chức năng tổ chức, chỉ đạo, được thể hiện qua việc phát huy sức mạnh của các tổ chức, các nhà quản lý, các lực lượng tham gia quản lý. Phát huy sức mạnh tổng hợp trong quản lý quá trình giáo dục giá trị sống - kỹ năng sống cho học sinh còn thể hiện ở sử dụng tổng hợp các nội dung, hình thức quản lý.

1.3. Giáo dục giá trị sống - kỹ năng sống ở trường Trung học phổ thông

1.3.1. Chương trình giáo dục GTS- KNS ở cấp THPT

* Đặc điểm học sinh THPT:

Học sinh THPT còn gọi là tuổi thanh niên, là giai đoạn phát triển bắt đầu từ lúc dậy thì và kết thúc khi bước vào tuổi người lớn. Tuổi thanh niên được tính từ 15 đến 25 tuổi, được chia làm 2 thời kì:

+ Thời kì từ 15-18 tuổi: gọi là tuổi đầu thanh niên

+ Thời kì từ 18-25 tuổi: giai đoạn hai của tuổi thanh niên (thanh niên sinh viên)

Tuổi thanh niên cũng thể hiện tính chất phức tạp và nhiều mặt của hiện tượng, nó được giới hạn ở hai mặt: sinh lí và tâm lý. Đây là vấn đề khó khăn và phức tạp vì không phải lúc nào nhịp điệu và các giai đoạn của sự phát triển tâm sinh lý cũng trùng hợp với các thời kỳ trưởng thành về mặt xã hội. Có nghĩa là sự trưởng thành về mặt thể chất, nhân cách trí tuệ, năng lực lao động sẽ không trùng hợp với thời gian phát triển của lứa tuổi. Chính vì vậy mà các nhà tâm lý học Macxit cho rằng: Khi nghiên cứu tuổi thanh nên thì cần phải kết hợp với quan điểm của tâm lý học xã hội và phải tính đến quy luật bên trong của sự phát triển lứa tuổi. Do sự phát triển của xã hội nên sự phát triển của trẻ em ngày càng có sự gia tốc, trẻ em lớn nhanh hơn và sự tăng trưởng đầy đủ diễn ra sớm hơn so với các thế hệ trước, nên tuổi dậy thì bắt đầu và kết thúc sớm hơn khoảng 2 năm. Vì vậy, tuổi thanh niên cũng bắt đầu sớm hơn. Nhưng việc phát triển tâm lý của tuổi thanh niên không chỉ phụ thuộc vào giới hạn lứa tuổi, mà trước hết là do điều kiện xã hội (vị trí của thanh niên trong xã hội; khối lượng tri thức, kỹ năng kỹ xảo mà họ nắm được và một loạt nhân tố khác…) có ảnh hưởng đến sự phát triển lứa tuổi. Trong thời đại ngày nay, hoạt

động lao động và xã hội ngày càng phức tạp, thời gian học tập của các em kéo dài làm cho sự trưởng thành thực sự về mặt xã hội càng đến chậm. Do đó có sự kéo dài của thời kì tuổi thanh niên và giới hạn lứa tuổi mang tính không xác định (ở mặt này các em được coi là người lớn, nhưng mặt khác thì lại không). Điều đó cho ta thấy rằng thanh niên là một hiện tượng tâm lý xã hội.

Ở lứa tuổi học sinh THPT, các em có hình dáng người lớn, có những nét của người lớn nhưng chưa phải là người lớn, còn phụ thuộc vào người lớn. Thái độ đối xử của người lớn với các em thường thể hiện tính chất hai mặt đó là : Một mặt người lớn luôn nhắc nhở rằng các em đã lớn và đòi hỏi các em phải có tính độc lập, phải có ý thức trách nhiệm và thái độ hợp lý. Nhưng mặt khác lại đòi hỏi các em phải thích ứng với những đòi hỏi của người lớn…

Đặc điểm học tập: lứa tuổi này các hứng thú và khuynh hướng học tập của các em đã trở nên xác định và được thể hiện rõ ràng hơn. Các em thường bắt đầu có hứng thú ổn định đặc trưng đối với một khoa học, một lĩnh vực tri thức hay một hoạt động nào đó. Điều này đã kích thích nguyện vọng muốn mở rộng và đào sâu các tri thúc trong các lĩnh vực tương ứng. Đó là những khả năng rất thuận lợi cho sự phát triển năng lực của các em.

Ở một số HS tình cảm cách mạng và ý chí phấn đấu còn yếu, trình độ giác ngộ về xã hội còn thấp. Các em có thái độ coi thường lao động chân tay, thích sống cuộc sống xa hoa lãng phí, đua đòi, ăn chơi…

- Thanh niên là lứa tuổi mộng mơ, khao khát sáng tạo, thích cái mới lạ, chuộng cái đẹp hình thức nên dễ bị cái đẹp bề ngoài làm lung lay ý chí, có mới nới cũ…

- Thanh niên rất hăng hái nhiệt tình trong công việc, rất lạc quan yêu đời nhưng cũng dễ bi quan chán nản khi gặp thất bại.

- Thanh niên là tuổi đang phát triển về tài năng, tiếp thu cái mới nhanh, rất thông minh sáng tạo nhưng cũng dễ sinh ra chủ quan, nông nổi, kiêu ngạo ít chịu học hỏi đến nơi đến chốn để nâng cao trình độ. Các em thích hướng đến tương lai, ít chú ý đến hiện tại và dễ quên quá khứ.

* Chương trình GD GTS-KNS cho HS:

Thực hiện Chỉ thị số 3008/CT-BGDĐT ngày 18/8/2014 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo (GDĐT) về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục mầm non

(GDMN), giáo dục phổ thông thì chương trình đào tạo Kỹ năng sống dành cho học sinh được thiết kế nhằm tạo ra môi trường trải nghiệm và rèn luyện kỹ năng sống giúp các em hoàn thiện kỹ năng của bản thân, luôn tự chủ thích ứng cuộc sống, tự tin và thể hiện bản thân. Trong đó tiếp tục rèn luyện những kỹ năng đã được học ở tiểu học, tập trung giáo dục những KNS cốt lõi, có ý nghĩa thiết thực cho người học như: kỹ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề, kỹ năng tư duy phản biện và sáng tạo, kỹ năng giao tiếp và hợp tác, kỹ năng tự nhận thức và cảm thông, kỹ năng quản lý cảm xúc và đương đầu với áp lực, kỹ năng tự học. Cụ thể chương trình GD GTS-KNS cho HS THPT bao gồm các GTS-KNS như sau:

Giá trị sống

Kỹ năng sống

Hòa bình

Tự nhận thức

Hợp tác

Tôn trọng

Xác định giá trị

Tư duy phê phán

Yêu thương

Kiểm soát cảm xúc

Tư duy sáng tạo

Khoan dung

Ứng phó với căng thẳng

Ra quyết định

Hạnh phúc

Tìm kiếm sự hỗ trợ

Giải quyết vấn đề

Trách nhiệm

Thể hiện sự tự tin

Kiên định

Hợp tác

Giao tiếp

Đảm nhận trách nhiệm

Khiêm tốn

Lắng nghe tích cực

Đặt mục tiêu

Trung thực

Thể hiện sự cảm thông

Quản lý thời gian

Giản dị

Thương lượng

Tìm kiếm

Tự do

Giải quyết mâu thuẫn


Đoàn kết



Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.


1.3.2. Ý nghĩa củagiáo dục giá trị sống-kĩ năng sống cho học sinh THPT

1.3.2.1. Giáo dục giá trị sống-kĩ năng sống góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện của trường THPT

Mục tiêu của giáo dục GTS-KNS là làm thay đổi hành vi của con người từ thói quen sống thụ động, cơ thể gây rủi ro mang lại hiệu quả tiêu cực chuyển thành những hành vi mang tính xây dựng, tích cực có hiệu quả để nâng cao chất lượng cuộc sống cho bản thân và góp phần phát triển bền vững cho xã hội.

Trang bị cho các em những kiến thức hiểu biết về một số chuẩn mực về hành 1

Trang bị cho các em những kiến thức hiểu biết về một số chuẩn mực về hành vi đạo đức và pháp luật trong mối quan hệ của các em với những tình huống cụ thể, những lời nói, việc làm của bản thân với những người thân trong gia đình, với bạn bè và công việc của lớp, của trường; với Bác Hồ và những người có công với đất nước, với dân tộc; với hành xóm láng giềng với bạn bè quốc tế; với cây trồng vật nuôi và nguồn nước.

Giúp các em học tập, rèn luyện những kỹ năng nói, nhận xét, đứng trước tập thể, lựa chọn, thực hiện hành vi ứng xử và quyết đoán…

Giúp các em có những thái độ trách nhiệm đối với những lời nói, việc làm của bản thân, tự tin vào khả năng của bản thân, yêu thương ông bà, cha mẹ, anh chị và bạn bè, biết ơn Bác Hồ và các thương binh liệt sĩ, biết đoàn kết bạn bè và biết bảo vệ môi trường…

Giáo dục GTS-KNS giúp cho các em nhận biết được các giá trị cuộc sống như sự bình an, khoan dung, yêu thương, trung thực, đoàn kết…và phát triển kỹ năng cá nhân, kỹ năng nhóm, kỹ năng tập thể, xác định rõ giá trị của bản thân và tập thể, sống tự tin và có trách nhiệm với chính mình và xã hội.

Giáo dục GTS-KNS cho học sinh THPT giúp cho các em có thể giải quyết tốt các nhiệm vụ học tập, rèn luyên đặt ra trong cuộc sống hàng ngày, giúp các em tự chủ, tự tin trong cuộc sống. Giúp các em có thể sống an toàn khoẻ mạnh trong một xã hội luôn luôn biến đổi.

1.3.2.2. Giáo dục GTS-KNS là quá trình chuẩn bị hành trang cho học sinh thích ứng với những thách thức của cuộc sống hội nhập và phát triển

- Giữa nhận thức và hành vi của con người có khoảng cách. s Nhận thức được giá trị sống và Kĩ năng sống là cầu nối giúp con người biến kiến thức thành thái độ, hành vi tích cực lành mạnh.

- Trong cuộc sống hội nhập phát triển, người nhận thức được giá trị sống, và sống có kĩ năng phù hợp sẽ luôn vững vàng, biết ứng xử tích cực và phù hợp, sẽ thành công hơn và yêu đời. Người thiếu giáo dục kĩ năng sống thường bị vấp ngã, dễ bị thất bại trong cuộc sống.

-Bên cạnh việc chuẩn bị hành trang cho cá nhân, giáo dục GTS-KNS còn góp phần ngăn ngừa các vấn đề xã hội, giúp nâng cao chất lượng cuộc sống xã hội.


20

Giáo dục GTS-KNS là điều kiện tốt nhất để HS phát huy vai trò chủ thể, tính tích cực, chủ động của các em trong quá trình học tập, rèn luyện toàn diện. Giáo dục GTS-KNS vừa củng cố, mở rộng kiến thức đã học, vừa nhận thức và phát triển các GTS-KNS cơ bản của HS theo mục tiêu GD ở THPT. Mặt khác, giáo thu hút và phát huy tiềm năng của các lực lượng GD, nhằm nâng cao hiệu quả GD toàn diện của nhà trường.

1.3.3. Nội dung giáo dục giá trị sống - kỹ năng sống trong trường THPT

1.3.3.1.Nội dung giáo dục GTS

Hòa bình: Hòa bình không chỉ là sự vắng bóng của chiến tranh mà còn là cảm thấy bình yên trong lòng, bình tĩnh và thư thái của trí óc.

Tôn trọng: trước hết là sự tự trọng – là biết giá trị của mình, sau đó là lắng nghe người khác, là biết người khác có giá trị như tôi.

Hợp tác: là khi mọi người biết làm việc chung với nhau, cùng hướng về một mục tiêu chung. Hợp tác phải được sự chỉ đạo của nguyên tắc về sự tôn trọng lẫn nhau, quan tâm và sẻ chia với nhau.

Trách nhiệm là tạo sự tin cậy và tín nhiệm với mọi người xung quang, góp phần mình vào công việc chung, thực hiện nhiệm vụ bởi lòng trung thực. Trung thực là nói sự thật, không có mâu thuẫn hoặc thiếu nhất quán trong suy nghĩ, lời nói và hành động.

Giản dị là sống một cách tự nhiên, không giả tạo, là chấp nhận hiện tại và không làm mọi thứ trở lên phức tạp; là biết trân tọng những điều nhỏ bé, bình thường trong cuộc sống.

Khiêm tốn là nhận biết khả năng, ưu thế của mình nhưng không khoác lác, khoe khoang; là biết lắng nghe và chấp nhân quan điểm của người khác.

Khoan dung là tôn trọng qua sự hiểu biết lẫn nhau; là cởi mở và nhận ra vẻ đẹp của sự khác biệt và sự đa dạng trong khi vẫn biết dàn xếp mầm mống gây chia rẽ, bất hòa. Khoan dung đối với những điều không thuận lợi trong cuộc sống là biết cho qua đi, trở nên nhẹ nhàng, thanh thản và tiếp tục tiến lên. Đoàn kết là sự hòa thuận, hợp tác ở trong và ở giữa các cá nhân trong một nhóm, một tập thể.

Yêu thương là biết nhận ra giá trị của bản thân mình và giá trị của người khác, muốn làm điều tốt cho họ, biết lắng nghe và chia sẻ, quan tâm và thông hiểu.

Tự do: quyền lợi được cân bằng với trách nhiệm, sự lựa chọn được cân bằng với lương tâm.‌

Hạnh phúc là trạng thái bình an của tâm hồn khiến con người không có những thay đổi đột ngột hay bạo lực; tâm hồn tràn ngập niềm vui, hy vọng và ước mong điều tốt lành cho mọi người.

1.3.3.2. Nội dung giáo dục kỹ năng sống

i, Kĩ năng tự nhận thức:Tự nhận thức là tự mình nhìn nhận, tự đánh giá về bản thân. Kĩ năng tự nhận thức là khả năng con người hiểu về chính bản thân mình, như cơ thể, tư tưởng, các mối quan hệ xã hội của bản thân; biết nhìn nhận, đánh giá đúng về tiềm năng, tình cảm, sở thích, thói quen, điểm mạnh, điểm yếu,…của bản thân mình; quan tâm và luôn ý thức được mình đang làm gì, kể cả nhận ra lúc bản thân đang cảm thấy căng thẳng.

Tự nhận thức là một KNS rất cơ bản của con người, là nền tảng để con người giao tiếp, ứng xử phù hợp và hiệu quả với người khác cũng như để có thể cảm thông được với người khác. Ngoài ra, có hiểu đúng về mình, con người mới có thể cớ những quyết định, những sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với khả năng của bản thân, với điều kiện thực tế và yêu cầu xã hội. Ngược lại, đánh giá không đúng về bản thân có thể dẫn con người đến những hạn chế, sai lầm, thất bại trong cuộc sống và trong giao tiếp với người khác. Để tự nhận thức đúng về bản thân cần phải được trải nghiệm qua thực tế, đặc biệt là giao tiếp với người khác.

ii, Kĩ năng giao tiếp:Kĩ năng giao tiếp là khả năng có thể bày tỏ ý kiến của bản thân theo hình thức nói, viết hoặc sử dụng ngôn ngữ cơ thể phù hợp với hoàn cảnh và văn hóa, đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến người khác ngay cả khi bất đồng quan điểm. Bày tỏ ý kiến bao gồm cả bày tỏ về suy nghĩ, ý tưởng, nhu cầu, mong muốn và cảm xúc, đồng thời nhờ sự giúp đỡ và sự tư vấn cần thiết.

Kĩ năng giao tiếp giúp con người biết đánh giá tình huống giao tiếp và điều chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả, cởi mở bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc nhưng không làm hại gây tổn thương cho người khác. Kĩ năng này giúp chúng ta có mối quan hệ tích cực với người khác, bao gồm biết gìn giữ mối quan hệ tích cực với các thành viên trong gia đình- nguồn hỗ trợ quan trọng cho mỗi chúng ta, đồng thời biết cách xây dựng mối quan hệ với bạn bè mới và đây là yếu tố rất quan trọng

Ngày đăng: 17/10/2024